những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước
Bài văn phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" số 2. Tây Bắc là mảnh đất đã gây biết bao thương nhớ cho các nhà văn trong đó có Tô Hoài. "Vợ chồng A Phủ" là tác phẩm được ông sáng tác năm 1952 và in trong tập "Truyện Tây Bắc". Đây là kết quả
Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: ''''Những người vợ nhớ chồng…. Những cuộc đời đã hóa sông núi ta'''' trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.33 KB, 9 trang
Nhắc về tinh thần kiên cường và những mất mát, hy sinh của các nữ tù, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã bật khóc trong sự xúc động: "Nhiều cô, nhiều dì đã phải hy sinh những điều thiêng liêng nhất của người mẹ, người vợ khi phải xa chồng, xa gia đình. Đã nén tình cảm cá nhân, thậm chí phải
Chính những năm tháng thâm nhập thực tế vùng núi cao Tây Bắc đã giúp Tô Hoài có một vốn sống phong phú và sâu sắc về cuộc sống và con người đồng bào các dân tộc vùng đất này.Bởi vậy, đọc Vợ chồng A Phủ, ngoài bức tranh hiện thực về đời sống xã hội, người
Người vợ thông minh sẽ tuyệt đối không bao giờ chia sẻ 9 điều này lên mạng xã hội. Đối mặt với chuyện ngoại tình của chồng, đây là cách đúng đắn nhất của người phụ nữ thông minh. Người phụ nữ có háo sắc, lăng nhăng hay không, 3 điểm 'riêng tư' này đàn ông
Núi ấy, hòn ấy là do "nhưng người vợ nhớ chồng", hoặc "cặp vợ chồng yêu nhau" mà đã "góp đã "góp cho", đã "góp nên" làm đẹp thêm, tô điểm thêm Đất Nước: "Những người vợ nhớ chổng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Reuters. Kể lại những phút cuối bên chồng sau khi vội vã đến thành phố Nara, nơi ông Abe bị ám sát trong lúc vận động tranh cử cho một ứng viên Đảng Dân chủ Tự do (LDP), bà Akie nói: "Khi tôi siết chặt tay, cảm giác như ông ấy cũng siết chặt lại tay tôi vậy.
Rằng mỗi tháng phải còng lưng lo trả góp cho một căn hộ thuộc dự án giá rẻ, xa trung tâm thật không đáng. Chi bằng hai vợ chồng bỏ tiền đó làm ăn, khi khấm khá hơn thì sẽ mua hẳn 1 căn nhà đất. Và tôi đồng ý. Việt mở công ty riêng về phần mềm.
chiediaglycab1983. Phân tích đoạn thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sống ta…” Mở bài Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” là tư tưởng bao trùm của chương “Đất Nước” cũng như của cả trường ca ca ngợi vai trò và sự hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Đoạn thơ từ câu “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu… Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” là một trong những đoạn thơ tiêu biểu thể hiện tư tưởng này. Thân bài Đoạn thơ gọi tên các danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước, trải dài từ Bắc vào Nam. Từ Bình Định, Lạng Sơn, Thanh Hoá với núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đến con cóc, con gà ở Hạ Long, chín mươi chín con voi về dựng đất Tổ Hùng Vương đến Đà Nẵng với núi Bút, non Nghiên, miền Nam với những cánh đồng Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. Những thắng cảnh thiên nhiên hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Những thắng cảnh này là sự hoá thân xả thân từ những gì có thật. Từ tình yêu giữa vợ và chồng nàng Tô Thị bồng con ngóng chồng ngày đêm mỏi mòn hoá đá. Từ sự son sắt thuỷ chung tha thiết của tình yêu lứa đôi. Trong cái riêng nhất của đời sống vẫn canh cánh trong lòng tình yêu đất nước. Từ những hiện tượng, thiên nhiên, địa lý lặng lẽ âm thầm như dòng sông, ao đầm đến những mảnh đất thiêng liêng như đất Tổ Hùng Vương đều có tiếng nói riêng kêu gọi hướng về cội nguồn nòi giống. Cảm động nhất là những con người, con vật quê hương đều có chung ý nghĩ làm giàu đẹp sang trọng cho đất nước. Cả đoạn thơ như sự huy động lực lượng tối đa để kiến tạo nên một đất nước riêng của mình. Nguyễn Khoa Điềm hiểu đến tận cùng những ký thác mà lịch sử cha ông để lại. Những địa danh trên không chỉ là tên gọi của những cảnh trí thiên nhiên thuần tuý mà được cảm nhận thông qua cảnh ngộ số phận của người dân. Dáng hình Đất Nước được tạc nên từ bao mất mát, đau thương vui buồn hạnh phúc… của nhân dân. Chính họ đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất. Từ những hình ảnh, cảnh vật, hiện tượng cụ thể nhà thơ đúc kết thành một khái quát sâu sắc “Và đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình… núi sông ta” Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử 4000 năm của đất nước không nói tới các triều đại hay những người anh hùng được lưu danh mà ca ngợi người dân- những con người vô danh giản dị mà phi thường “Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Chính họ đã làm ra Đất Nước” Mạch cảm xúc dồn tụ dần và kết thúc bật lên tư tưởng chủ đạo của cả chương thơ và bản trường ca “Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” Tư tưởng chủ đạo của chương được thể hiện bằng hình thức trữ tình chính luận. Nguyễn Khoa Điềm đưa ra để thuyết phục người đọc thật giản dị chính người dân – những con người vô danh đã kiến tạo và bảo vệ Đất Nước, xây dựng truyền thống văn hóa lịch sử ngàn đời. Lý lẽ ấy không phát biểu một cách khô khan mà bằng hình ảnh gợi cảm, giọng thơ sôi nổi tha thiết. Qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và nghĩ suy, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với người dân, đất nước của thế hệ trẻ thời kỳ chống Mỹ. Đoạn thơ trên đã thể hiện rõ quan niệm “Đất Nước của nhân dân”- tư tưởng chủ đạo, tạo nên cảm hứng bao trùm, mở ra những khám phá sâu và mới của nhà thơ về Đất Nước ngay cả ở những chỗ đã rất quen thuộc. Quan niệm ấy thực ra đã có ngọn nguồn từ trong dòng tư tưởng và văn chương truyền thống của dân tộc ta. Nhưng đến thời hiện đại, tư tưởng ấy lại càng trở nên sâu sắc và được thể hiện phong phú trong thơ ca. Kết bài Đoạn trích trên đã thể hiện những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt của tác giả về quê hương, đất nước. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm đa nói lên trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với tổ quốc. Pautopxki từng nói “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp.” Và phải chăng Nguyễn Khoa Điềm đa tìm thấy riêng con đường của mình khi tiến đến đất nước, để rồi Đất nước hiện ra thật bình dị, gần gũi và đẹp đẽ biết bao. Đọc đoạn trích Đất nước ta được khám phá một vẻ đẹp mới của đất nước mà qua đó ta nâng cao thêm tinh thần yêu đất nước, yêu tổ quốc và trách nhiệm của ta bây giờ không chỉ là học tập mà còn là gìn giữ truyền thống, gìn giữ đất nước, góp phần làm cho đất nước giàu đẹp hơn. Bài tham khảo Mở bài Hình ảnh đất nước đã khơi nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao thi sĩ Cách mạng để sáng tạo nên những vần thơ đẹp tuyệt vời. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nhìn suốt chiều dài lịch sử oanh liệt để khẳng định “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”. Lê Anh Xuân đã tạc vào thơ một dáng đứng Việt Nam với hình ảnh “Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất; Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Tố Hữu với hình ảnh đất nước sáng ngời “Ôi! Việt Nam từ trong biển máu; Người vươn lên như một thiên thần”. Với chương Đất Nước trong Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên những cảm nhận sâu sắc về đất nước, về nhân dân, về dân tộc và trách nhiệm lớn lao của tuổi trẻ Việt Nam trước non sông đất nước. Thân bài Trong các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tưởng, xúc cảm dồn nén, thể hiện một chiều sâu văn hoá, đặc trưng của thế hệ các nhà thơ thời kỳ chống Mỹ cứu nước đã có một hành trang văn hóa chuẩn bị khá chu đáo trước khi bước vào chiến trường. Chương Đất Nước khai triển có vẻ phóng túng, tự do như một thứ tuỳ bút thơ, nhưng thật ra tứ thơ vẫn tập trung thể hiện tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” qua các bình diện chủ yếu Đất Nước trong chiều dài thời gian lịch sử, Đất Nước trong chiều rộng không gian lãnh thổ địa lý, Đất Nước trong bề sâu truyền thống văn hoá, phong tục, lối sống tâm hồn, cốt cách dân tộc. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” là một tư tưởng rất tiến bộ của thơ ca thời đại Cách mạng. Với đoạn thơ Đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về thiên nhiên địa lí của đất nước. Để nói lên công lao to lớn của nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhà thơ đã nhắc đến những danh lam thắng cảnh, những tên đất, tên làng trên mọi miền đất nước từ Nam chí Bắc. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn thấy hình sông, thế núi là sự kết tinh đời sống tâm hồn của nhân dân. Xuất phát từ quan niệm của nhà Phật hóa thân, tác giả đã trình bày những cảm xúc, suy tưởng của mình chính nhân dân đã hoá thân thành đất nước “hóa thân cho dáng hình xứ sở” làm nên đất nước vĩnh hằng. Qua cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, những danh lam thắng cảnh không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa mà đã được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự “hoá thân” của những con người không tên không tuổi. Chúng chỉ trở thành thắng cảnh khi đã gắn liền với cuộc sống của nhân dân, với con người, được tiếp nhận, cảm thụ quan tâm hồn nhân dân và qua lịch sử của dân tộc. Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” khiến cho những địa danh ngàn đời của Tổ quốc qua cái nhìn sắc sảo đầy khám phá của nhà thơ chính là sự hoá thân của những con người bình dị, vô danh những con người “không ai nhớ mặt đặt tên” “nhưng họ đã làm ra đất nước” “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái” Những địa danh, những hình sông thế núi mang hình người, linh hồn dân tộc. Chúng là sự tượng hình kết tinh đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân mang đậm chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo Việt Nam. Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định…, hòn Trống Mái ở Sầm Sơn là do “những người vợ nhớ chồng” hoặc những “cặp vợ chồng yêu nhau” mà “góp cho”, “góp thêm”, làm đẹp thêm, tô điểm cho Đất Nước. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái cũng là kết tinh tình yêu thuỷ chung của biết bao người vợ chờ chồng trong chiến tranh liên miên, của sự gắn kết muôn đời, bất chấp mọi bão tố của thời gian “Không hoá thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ Đợi một dáng hình trở lại giữa đơn côi” Tác giả không chỉ chiêm ngưỡng những hình ảnh núi Bút, non Nghiên mà còn nhìn ra trong đó phẩm chất, truyền thống hiếu học và khát vọng trí tuệ của dân tộc ta từ bao đời nay. Những núi Bút, non Nghiên phô bày vẻ đẹp mỹ lệ giữa đất trời nước Việt hay là hình tượng những người học trò nghèo đã gửi gắm quyết tâm, ước vọng của mình vào đấy “Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên”. “Nghèo” nhưng “người học trò” vẫn góp cho đất nước ta “núi Bút non Nghiên”, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt, văn hiến Việt Nam. Đó cũng chính là truyền thống hiếu học, vượt khó vươn lên của nhân dân ta. Nhà thơ đã tìm về cội nguồn để cảm nhận sâu sắc dáng hình đất nước. Những hình ảnh thân quen của non sống đất nước gợi lên quá khứ hào hùng với truyền thống đánh giặc ngoại xâm oanh liệt của nhân dân ta qua truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân “Ta như thuở xưa thần Phù Đổng Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt Chí căm thù ta rèn thép thành roi Lửa chiến đấu ta phun vào mặt Lũ sát nhân cướp nước hại nòi” Tố Hữu Họ đứng lên cùng với sự nghiệp dựng nước đầy gian lao của vua Hùng “Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương” Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã ca ngợi vẻ đẹp của Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Chính cái “gót ngựa của Thánh Gióng” đã “để lại” cho đất nước bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay. “Chín mươi chín” núi con Voi đã quần tụ, chung sức chung lòng “góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”. Cho đến “những con rồng nằm im” cũng góp phần làm nên “dòng sông xanh thẳm”, “con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh” và cả những địa danh thật nôm na, bình dị “những ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”. “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Những dòng sông trên đất nước ta là do rồng “nằm im” từ bao đời nay. Nhờ đó mà quê hương ta có “dòng sông xanh thẳm”, thơ mộng cho nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa. Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” cũng thể hiện trong kì quan nổi tiếng, những tên tuổi có công với dân với nước “Con cóc con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” Theo cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng góp cho”. Những tên làng, tên núi, tên sông như “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ” là do những con người vô danh, bình dị làm nên. Nguyễn Khoa Điềm đã đặt cái nhìn trân trọng của mình vào nhân dân không tên không tuổi, “những người dân nào” không ai biết cũng làm nên tên núi, tên sông và tất cả những cái bình thường trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân cũng hoá thân thành “dáng hình xứ sở”. Những địa danh ở vùng cực Nam đất nước xa xôi này tượng trưng cho tinh thần xả thân vì cộng đồng, đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta. Để khẳng định và nhấn mạnh tư tưởng “Đất nước của nhân dân” và chính nhân dân vô tận, những người vô danh không tên không tuổi đã làm nên đất nước, ở đoạn thơ trên tác giả đã sử dụng rất thành công điệp từ “góp”, một động từ diễn đạt hành động “cùng mọi người đưa cái riêng của mình vào thành cái chung” Từ điển Tiếng Việt – trang 758 Đọc đoạn thơ này ta cảm thấy ngạc nhiên thích thú trước những lí giải của Nguyễn Khoa Điềm. Ai ngờ những điạ danh, thắng cảnh quá thân quen lại có khả năng nói được nhiều điều sâu xa như thế. Số phận, cảnh ngộ, công lao của mỗi người đã đóng góp, hoá thân vào Đất Nước. Đất Nước thấm sâu vào tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Từ đó, Nguyễn Khoa Điềm đi đến kết luận mang tính khái quát sâu sắc giàu chất suy tư và triết luận về sự hoá thân của nhân dân vào đất nước Tính khái quát của hình tượng thơ cứ được nâng dần lên. Đó là một hình dáng của tư thế truyền thống Việt Nam, truyền thống văn hiến của dân tộc có bốn nghìn năm lịch sử “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sống ta…” Nhìn ra trên mọi miền Đất Nước của Tổ quốc Việt Nam, những tên núi, tên sông, tên làng, tên bản, tên ruộng đồng , gò bãi… đều mang đậm “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Chính cuộc đời của cha ông ta – những người dân không tên tuổi – đã làm nên Đất Nước. Tất cả đều do nhân dân tạo ra, đều kết tinh từ công sức và khát vọng của nhân dân – những con người bình thường, vô danh. Nhưng tầm vóc của Đất Nước và nhân dân không chỉ trên bình diện địa lí “mênh mông” mà còn ở dòng chảy thời gian lịch sử “bốn nghìn năm” “đằng đẵng”. Kết bài Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên và được viết theo thể tự do. Câu thơ mở rộng kéo dài nhưng không nặng nề mà biến hoá linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu sức biểu hiện và sức khái quát cao. Đó là hình ảnh “Đất Nước của nhân dân”, nhân dân đã hoá thành đất nước. Bởi trên khắp ruộng đồng gò bãi, núi sông đâu đâu cũng là hình ảnh của văn hoá, của đời sống tâm hồn, cốt cách của Việt Nam. Bài tham khảo Phân tích đoạn thơ sau để làm rõ tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” trong đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu …………………………. Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Mở bài Hình ảnh đất nước đã khơi nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao thi sĩ Cách mạng để sáng tạo nên những vần thơ đẹp tuyệt vời. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nhìn suốt chiều dài lịch sử oanh liệt để khẳng định “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”. Lê Anh Xuân đã tạc vào thơ một dáng đứng Việt Nam với hình ảnh “Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất; Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Tố Hữu với hình ảnh đất nước sáng ngời “Ôi! Việt Nam từ trong biển máu; Người vươn lên như một thiên thần”. Với chương Đất Nước trong Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên những cảm nhận sâu sắc về đất nước, về nhân dân, về dân tộc và trách nhiệm lớn lao của tuổi trẻ Việt Nam trước non sông đất nước. “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu …………………………. Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Thân bài Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 ở Thừa Thiên Huế, là một nhà thơ tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Đất Nước thuộc chương V của trường ca Mặt đường khát vọng 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ sinh viên các đô thị tạm chiếm ở miền Nam trước năm 1975 trước vận mệnh hiểm nghèo của đất nước; kêu gọi họ hướng về nhân dân mà xuống đường đấu tranh hoà nhập với cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Trong các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tưởng, xúc cảm dồn nén, thể hiện một chiều sâu văn hoá, đặc trưng của thế hệ các nhà thơ thời kỳ chống Mỹ cứu nước đã có một hành trang văn hóa chuẩn bị khá chu đáo trước khi bước vào chiến trường. Chương Đất Nước khai triển có vẻ phóng túng, tự do như một thứ tuỳ bút thơ, nhưng thật ra tứ thơ vẫn tập trung thể hiện tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” qua các bình diện chủ yếu Đất Nước trong chiều dài thời gian lịch sử, Đất Nước trong chiều rộng không gian lãnh thổ địa lý, Đất Nước trong bề sâu truyền thống văn hoá, phong tục, lối sống tâm hồn, cốt cách dân tộc. Tư tưởng “đất nước của nhân dân” là một tư tưởng rất tiến bộ của thơ ca thời đại Cách mạng. Đoạn trích bình giảng trên đây đã thể hiện một cách sâu sắc và cụ thể sự “hoá thân” của nhân dân vào đất nước muôn đời. Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về thiên nhiên địa lí của đất nước Để nói lên công lao to lớn của nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhà thơ đã nhắc đến những danh lam thắng cảnh, những tên đất, tên làng trên mọi miền đất nước từ Nam chí Bắc. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn thấy hình sông, thế núi là sự kết tinh đời sống tâm hồn của nhân dân. Xuất phát từ quan niệm của nhà Phật hóa thân, tác giả đã trình bày những cảm xúc, suy tưởng của mình chính nhân dân đã hoá thân thành đất nước “hóa thân cho dáng hình xứ sở” làm nên đất nước vĩnh hằng. Qua cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, những danh lam thắng cảnh không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa mà đã được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự “hoá thân” của những con người không tên không tuổi. Chúng chỉ trở thành thắng cảnh khi đã gắn liền với cuộc sống của nhân dân, với con người, được tiếp nhận, cảm thụ quan tâm hồn nhân dân và qua lịch sử của dân tộc. Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” khiến cho những địa danh ngàn đời của Tổ quốc qua cái nhìn sắc sảo đầy khám phá của nhà thơ chính là sự hoá thân của những con người bình dị, vô danh những con người “không ai nhớ mặt đặt tên” “nhưng họ đã làm ra đất nước” “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái” Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định…, hòn Trống Mái ở Sầm Sơn là do “những người vợ nhớ chồng” hoặc những “cặp vợ chồng yêu nhau” mà “góp cho”, “góp thêm”, làm đẹp thêm, tô điểm cho Đất Nước. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái cũng là kết tinh tình yêu thuỷ chung của biết bao người vợ chờ chồng trong chiến tranh liên miên, của sự gắn kết muôn đời, bất chấp mọi bão tố của thời gian “Không hoá thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ Đợi một dáng hình trở lại giữa đơn côi” Tác giả không chỉ chiêm ngưỡng những hình ảnh núi Bút, non Nghiên mà còn nhìn ra trong đó phẩm chất, truyền thống hiếu học và khát vọng trí tuệ của dân tộc ta từ bao đời nay. Những núi Bút, non Nghiên phô bày vẻ đẹp mỹ lệ giữa đất trời nước Việt hay là hình tượng những người học trò nghèo đã gửi gắm quyết tâm, ước vọng của mình vào đấy “Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên” Nhà thơ đã tìm về cội nguồn để cảm nhận sâu sắc dáng hình đất nước. Những hình ảnh thân quen của non sống đất nước gợi lên quá khứ hào hùng với truyền thống đánh giặc ngoại xâm oanh liệt của nhân dân ta qua truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân, cùng với sự nghiệp dựng nước đầy gian lao của vua Hùng “Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương” Cho đến “những con rồng nằm im” cũng góp phần làm nên “dòng sông xanh thẳm”, “con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh” và cả những địa danh thật nôm na, bình dị “những ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”. “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Những dòng sông trên đất nước ta là do rồng “nằm im” từ bao đời nay. Nhờ đó mà quê hương ta có “dòng sông xanh thẳm”, thơ mộng cho nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa. Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” cũng thể hiện trong kì quan nổi tiếng, những tên tuổi có công với dân với nước “Con cóc con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” Theo cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng góp cho”. Những tên làng, tên núi, tên sông như “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm “ là do những con người vô danh, bình dị làm nên. Để khẳng định và nhấn mạnh tư tưởng “Đất nước của nhân dân” và chính nhân dân vô tận, những người vô danh không tên không tuổi đã làm nên đất nước, ở đoạn thơ trên tác giả đã sử dụng rất thành công điệp từ “góp”, một động từ diễn đạt hành động “cùng mọi người đưa cái riêng của mình vào thành cái chung” Từ điển Tiếng Việt – trang 758 Từ đó, Nguyễn Khoa Điềm đi đến kết luận mang tính khái quát sâu sắc giàu chất suy tư và triết luận về sự hoá thân của nhân dân vào đất nước Tính khái quát của hình tượng thơ cứ được nâng dần lên. Đó là một hình dáng của tư thế truyền thống Việt Nam, truyền thống văn hiến của dân tộc có bốn nghìn năm lịch sử “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Thì ra trên mọi miền Đất Nước của Tổ quốc Việt Nam, những tên núi, tên sông, tên làng, tên bản, tên ruộng đồng , gò bãi… đều mang đậm “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Chính cuộc đời của cha ông ta – những người dân không tên tuổi – đã làm nên Đất Nước. Tất cả đều do nhân dân tạo ra, đều kết tinh từ công sức và khát vọng của nhân dân – những con người bình thường, vô danh. Nhưng tầm vóc của Đất Nước và nhân dân không chỉ trên bình diện địa lí “mênh mông” mà còn ở dòng chảy thời gian lịch sử “bốn nghìn năm” “đằng đẵng”. Kết bài Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên và được viết theo thể tự do. Câu thơ mở rộng kéo dài nhưng không nặng nề mà biến hoá linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu sức biểu hiện và sức khái quát cao. Đó là hình ảnh “Đất Nước của nhân dân” – nhân dân đã hoá thành đất nước. Bởi trên khắp ruộng đồng gò bãi, núi sông đâu đâu cũng là hình ảnh của văn hoá, của đời sống tâm hồn, cốt cách của Việt Nam. Phân tích ý nghĩa bài thơ Đất nước trích Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm Phân tích tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” trong đoạn trích Đất nước trích “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm Cảm nhận hình ảnh đất nước trong 9 dòng thơ đầu đoạn trích “Đất nước” “Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm Phân tích tư tưởng Đất nước của Nhân dân trong đoạn trích Đất nước trích “Mặt đường khát vọng”; của Nguyễn Khoa Điềm
Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ”Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm Văn mẫu lớp 12 Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ”Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm được tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 12 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 12 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo. Hiện tại kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc Gia năm 2020 chưa diễn ra. Tuy nhiên, nội dung đề thi THPT Quốc Gia 2020 môn Văn và gợi ý Đáp án Đề thi THPT Quốc Gia 2020 môn Văn sẽ được VnDoc cập nhật ngay khi hết thời gian làm bài tại link sau Đáp án Đề thi THPT Quốc Gia 2020 môn Văn xin gửi tới bạn đọc bài viết Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ”Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm để bạn đọc cùng tham khảo. Bài gồm có 4 mẫu bài phân tích. Bài phân tích nêu rõ được tư tưởng của nhân dân qua tác phẩm Đất nước, hình ảnh Thánh Gióng, Hùng Vương đã đi vào tiềm thức của người nhân dân Việt Nam. Mời bạn đọc cùng tham khảo chi tiết tại đây. I. Khái quát chung về tác giả Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 tại huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, quê gốc ở thành phố Huế. Ông sinh trưởng trong một gia đình trí thức cách mạng, cha là Nguyễn Khoa Văn tức Hải Triều – nhà lí luận, phê bình văn học theo quan điểm mác xít trong giai đoạn 1930 – 1945. Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, Nguyễn Khoa Điềm về niềm Nam tham gia cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ những năm kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Thơ ông còn là sự kết tinh của xúc cảm và trí tuệ để thăng hoa thành thơ. Đó không chỉ là sản phẩm của một trí tuệ giàu có, một tư duy sắc sảo mà đó còn là sản phẩm của một tấm lòng, một trái tim nên có sức lay động ở tận đáy sâu tâm hồn người đọc. Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là nhà thơ với phong cách thơ trữ tình chính luận. Sự thống nhất độc đáo của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm nằm ở cảm hứng hiện thực thời đại, ở những chủ đề quen thuộc, ở phương diện thể hiện cái tôi trữ tình phong phú đa dạng, với lớp ngôn từ, hình ảnh cảm xúc ẩn sau bề mặt câu chữ một cảm quan lịch sử văn hoá sâu sắc độc đáo. Sau năm 1975, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục hoạt động văn nghệ và công tác chính trị ở thành phố Huế quê hương, rồi làm Tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam khóa V, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin. Tác phẩm chính Đất ngoại ô tập thơ, 1972, Mặt đường khát vọng Trường ca, 1974, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm tập thơ, 1986, Cõi lặng tập thơ, 2007. II. Dàn ý Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước Dàn ý Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước – Bài mẫu 1 1. Mở bài Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và Đất nước. 2. Thân bài “Núi Vọng Phu” địa danh nổi tiếng gắn với sự tích người vợ hóa đá chờ chồng → khẳng định tình cảm thủy chung, son sắt của người phụ nữ Việt Nam. Hòn Trống Mái hai tảng đá xếp chồng lên nhau nằm trên một ngọn núi ở Sầm Sơn, Thanh Hóa → khẳng định tình cảm, sự gắn bó trong tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng. Tổ Hùng Vương gắn với truyền thuyết 99 con voi quây bên đền thờ các vua Hùng để phục Tổ → khẳng định niềm tự hào lịch sử vua Hùng. Núi Bút, Non Nghiên có hình cây bút và nghiên mực ở Quảng Ngãi, nói lên truyền thống hiếu học của người Việt Nam. Hạ Long thành thắng cảnh Hạ Long, một di sản thiên nhiên thế giới. Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm sơn danh của những người có công với nước ở Nam Bộ, tự hào về truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc. Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước. → Những địa danh được cảm nhận qua những số phận, những cảnh ngộ của con người, sự hóa thân của những con người không tên tuổi như một phần máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân bao đời đã tạo nên Đất Nước này, đã ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. 3. Kết bài Khái quát lại nội dung và giá trị của đoạn trích Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp phần không nhỏ làm nên sự đa dạng, phong phú cho nền văn học Việt Nam. Dàn ý Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước – Bài mẫu 2 I/ Mở bài – Giới thiêu tác giả, tác phẩm – Giới thiệu đoạn thơ “ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu,…Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. II/ Thân bài 1. Trước hết, tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu địa lí về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. – Nhà thơ đã kể, liệt kê một loạt kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước. Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay, ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc. – Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu thương thủy chung để ta có những “núi Vọng Phu”, những “hòn Trống mái” như những biểu tượng văn hóa. Hay vẻ đẹp lẽ sống anh hùng của dân tộc trong buổi đầu giữ nước để ta có những “ao đầm”… như những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng… → Thiên nhiên được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên, không tuổi. 2. Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân – Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc. “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta…”. III/ Kết bài – Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn thơ. III. Văn mẫu Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước – Bài tham khảo 1 Con người Việt Nam ta từ xưa đến nay tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm luôn chảy trong dòng máu, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ gian khổ, có biết bao nhiêu bài thơ, bài văn ra đời để cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân và dân ta ngoài mặt trận. Một trong số các tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước đó không thể không kể đến Trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mà nổi bật là đoạn trích Đất nước. Qua đoạn trích, tác giả đã khẳng định tư tưởng đất nước là của nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là nhà thơ với phong cách trữ tình chính luận độc đáo. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thu hút, hấp dẫn người đọc bởi sự đan kết cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của một thanh niên tri thức tự ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu vì đất nước và nhân dân. “Trường ca Mặt đường khát vọng” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ văn của ông. Đoạn trích Đất nước thuộc chương V của bản Trường ca mang đến cho bạn đọc cái nhìn mới mẻ về hình hài của Đất nước. Bên cạnh đó, tác giả cũng ngầm khẳng định Đất nước là của nhân dân. “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu….………………………………………Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Nguyễn Khoa Điềm thật khéo léo và tinh tế khi đã vận dụng sáng tạo thành công chất liệu dân gian vào bài thơ của mình để tạo nét riêng biệt không thể nhầm lẫn. Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng đến hóa đá của người phụ nữ. Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ chồng chung thủy. Dù ở bất cứ nơi nào trên đất nước, bờ cõi này thì tình cảm yêu thương, gắn bó vợ chồng vẫn là những tình cảm vô cùng tốt đẹp xứng đáng được tôn vinh. Không chỉ có tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng, Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Đó là vị anh hùng Thánh Gióng nhỏ tuổi nhưng khi có giặc anh dũng ra trận đánh đuổi giặc Ân lấy lại độc lập cho nước nhà. Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự quây quần của đàn voi chín mươi chín con. Tất cả những câu chuyện, những sự tích, truyền thuyết trên đều rất thân thuộc với mỗi thế hệ con dân trên Đất nước này, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của chúng ta. Chúng ta có thể tự hào rằng Đất nước này là đất nước của những con người hiếu học. Biết bao tấm gương nghèo vượt khó vươn kên trở thành nhân tài cho đất nước, đánh dấu công lao của mình bằng những núi Bút, non Nghiên. Dù họ là những người nổi tiếng hay chỉ là những con người vô danh thì họ cũng đáng để chúng ta biết ơn, học tập và noi theo. Đất nước còn được hình thành từ những điều hết sức nhỏ bé những quả núi hình con cóc, con gà quây quần cũng giúp cho Hạ Long trở thành di sản thế giới. Những ngọn núi khác cũng được đặt theo tên của các vị anh hùng để con cháu mai sau không quên ơn họ và tôn vinh những giá trị quý báu mà họ đã gây dựng cho nước nhà. Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước. Ở trên đất nước này đâu đâu cũng mang dáng dấp, những kỉ niệm của thế hệ ông cha. Hành trình hơn bốn nghìn năm lịch sử vẫn sẽ tiếp tục mãi mãi và cũng sẽ có nhiều hơn những kỉ niệm, những giai thoại được ghi vào sử sách. Tuy nhiên, không vì thế mà lối sống cha ông đi vào dĩ vãng, nó mãi là những tiếng âm vang, là niềm tự hào của con cháu sau này. Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cùng với trường ca “Mặt đường khát vọng” vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng đẹp đẽ, đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người Việt Nam trước đây, bây giờ và cả sau này. Bản trường ca của tác giả Nguyễn Khoa Điềm làm ta thêm hiểu và yêu Đất nước đồng thời thôi thúc bản thân hành động để bảo vệ và phát triển đất nước này. Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước – Bài tham khảo 2 Nguyễn Khoa Điềm là gương mặt nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Viết về cuộc kháng chiến bằng những trải nghiệm chân thực với hồn thơ giàu chất suy tư, lắng đọng, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được tình yêu nước, tâm tư của người trí thức tích cực tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân. “Đất nước” là đoạn trích đặc sắc trích trong tác phẩm trường ca Mặt đường khát vọng, tác phẩm thể hiện rõ nét tài năng và tâm huyết của Nguyễn Khoa Điềm. Qua bài thơ tác giả đã thể hiện được những cảm nhận riêng biệt mà vô cùng độc đáo và đất nước. Trong bài thơ Đất nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được cái nhìn sâu sắc khi phát hiện ra những biểu hiện đầy mới mẻ của khái niệm “đất nước”. Trước hết, đó chính là những phát hiện mới mẻ về phương diện không gian địa lí của đất nước “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước nhưng núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” Trong nhận thức của nhà thơ, không gian địa lí, địa danh, hình hài của đất nước được tạo nên từ chính những điều gần gũi, thiêng liêng nhất bởi đó là sự hóa thân của nhân dân Hòn Vọng Phu được làm nên từ nỗi nhớ chồng của người vợ, tình yêu thủy chung của cặp vợ chồng làm nên hòn Trống Mái, đó còn là những địa danh được làm nên từ truyền thống chống giặc hào hùng, bất khuất “gót ngựa Thánh Gióng” từ nền văn hóa đậm đà của dân tộc “chín mươi chín con voi”. Nhân dân, những con người bình dị cùng nhau sinh sống trong đất nước, đó là những con người vô danh nhưng những con người vô danh ấy đã cùng nhau gây dựng nên cái hữu danh của đất nước. Mỗi người đều lặng lẽ góp phần làm nên vẻ đẹp, sự kì thú của thiên nhiên cũng như làm phong phú hơn cho những truyền thống văn hóa của đất nước. “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non NghiênCon cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” Đất nước là hóa thân, hình ảnh của nhân dân, những con người vô danh nhưng lại có thể làm nên hình hài, diện mạo cho đất nước. Không chỉ hướng ngòi bút đến sự trù phú, tươi đẹp của thiên nhiên đất nước mà tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện sự suy ngẫm mang tính triết lí sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn của con người, lịch sử Việt Nam. Đó là truyền thống hiếu học, là tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của của những con người Việt Nam để làm nên những truyền thống hào hùng, đáng tự hào của dân tộc. “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta” Từ những cuộc đời, những hóa thân cụ thể, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên và con người, giữa đất nước với nhân dân. Cũng qua khổ thơ, tác giả đã bộc lộ được niềm tự hào khôn xiết trước vẻ đẹp của thiên nhiên, vóc dáng, dáng hình của quê hương và những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc. Đó còn là thái độ yêu thương, trân trọng, tự hào trước những đóng góp lớn lao của thế hệ cha ông đi trước. Đất nước là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận trữ tình và chất suy tưởng mang đến những giá trị tư tưởng đặc sắc cho tác phẩm. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng linh hoạt chất liệu dân gian, đưa vào những yếu tố văn hóa đậm nét, nổi bật để thể hiện những cảm nhận độc đáo về đất nước. Đoạn thơ đã thể hiện được tư tưởng đất nước của nhân dân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, đây cũng là đóng góp mới lạ, độc đáo về chủ đề đất nước. Đất nước đã mang đến cho người đọc bao cảm xúc tự hào, khơi dậy ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước. Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước – Bài tham khảo 3 Nguyễn Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam, từ miền ngược tới miền xuôi, từ núi rừng tới biển cả, tự hào về bao danh lam thắng cảnh của Đất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và bao địa danh mang tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non NghiênCon có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Thực chất những danh thắng ấy là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lí từ hàng ngàn, hàng vạn năm chứ. Không khám phá dưới góc độ khoa học, với suy từ sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về những danh lam thắng cảnh ấy. Những núi vọng phu trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính là sự hóa thân của những người vợ, người chồng. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt đã tạo nên dáng núi kì lạ ấy. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh là biểu tượng đẹp đẽ cho tình yêu thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõi tiên bất chấp luật lệ thiên đình, nguyện hóa đá để muôn đời ở mãi bên nhau. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về tinh thần yêu nước nồng nàn, khí phách kiên cường bất khuất của những người dân đất Việt. Không có tinh thần đoàn kết một lòng tất không thể có Tổ quốc linh thiêng, hùng vĩ. Không có tinh thần vượt khó, hiếu học, không có núi bút non Nghiên. Và bất cứ danh lam thắng cảnh nào trên dải đất hình chữ S cũng là máu thịt của nhân dân. Vậy là mọi danh lam thắng cảnh đều là kết quả của sự hóa thân diệu kì, của bao thế hệ nhân dân lao động. Mỗi hình sông dáng núi, bóng đèo đều in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất của những con người Đất Việt. Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không có nhân dân bao đời với tâm hồn cao quý, khát vọng lãng mạn thì không có những thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời chiêm ngưỡng. Từ những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể, nổi tiếng của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến những khái quát tính chiết luận Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng màng một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn nghìn năm ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta… Đâu chỉ có những địa danh như núi vọng phu, hòn Trống Mái, sự hóa thân diệu kì của nhân dân mà tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng, lối sống của ông cha ta. Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha thuở trước, Nguyễn Khoa Điềm không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọc nguyên vẹn cảm xúc ấy. Khúc thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và chất trữ tình, giữa thế núi kì thú và Nguyễn Khoa Điềm đã cắt những câu hỏi đó bằng suy từ lắng của mình, bằng những hình ảnh giàu chất thơ. Mạch thơ thể hiện rõ tư duy logic, đi từ cụ thể đến khái quát, một cách khái quát đầy cảm xúc, rưng rưng xúc động. Đoạn thơ cũng đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết. Chính chất liệu dân gian độc đáo, mới mẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổng Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước – Bài tham khảo 4 Tình yêu tha thiết của Lênin dành cho nước Nga cũng là tiếng lòng của biết bao nhiêu nghệ sĩ khắp dải đất Việt Nam. Cùng thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng nhưng mỗi nhà thơ lại có tiếng nói riêng độc đáo. Trường ca “Mặt đường khát vọng” với “Đất Nước” đã đưa chúng ta đến một Đất Nước giản dị mà rất đỗi đời thường – Đất Nước của nhân dân. Với một lối đi cho riêng mình, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện sâu sắc về địa lí, lịch sử, văn hóa của Đất Nước Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng Phu………………………………………………………Những cuộc đời đã hóa núi sông ta… Chia sẻ về ý tưởng đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm từng khẳng định Tôi cố gắng … khác. Quả đúng như vậy, khám phá vẻ đẹp của Đất Nước trong không gian mênh mông, Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ngợi ca núi sông hùng vĩ mà thơ mộng với rừng xanh đồi cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt, biển lúa mênh mông, cánh cò dập dờn… như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và bao nhà thơ khác. Với một lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ sâu sắc. Nguyễn Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam, từ miền ngược tới miền xuôi, từ núi rừng tới biển cả, tự hào về bao danh lam thắng cảnh của Đất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và bao địa danh mang tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non NghiênCon có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Thực chất những danh thắng ấy là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lí từ hàng ngàn, hàng vạn năm chứ. Không khám phá dưới góc độ khoa học, với suy từ sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về những danh lam thắng cảnh ấy. Những núi vọng phu trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính là sự hóa thân của những người vợ, người chồng. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt đã tạo nên dáng núi kì lạ ấy. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh là biểu tượng đẹp đẽ cho tình yêu thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõi tiên bất chấp luật lệ thiên đình, nguyện hóa đá để muôn đời ở mãi bên nhau. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về tinh thần yêu nước nồng nàn, khí phách kiên cường bất khuất của những người dân đất Việt. Không có tinh thần đoàn kết một lòng tất không thể có Tổ quốc linh thiêng, hùng vĩ. Không có tinh thần vượt khó, hiếu học, không có núi bút non Nghiên. Và bất cứ danh lam thắng cảnh nào trên dải đất hình chữ S cũng là máu thịt của nhân dân. Vậy là mọi danh lam thắng cảnh đều là kết quả của sự hóa thân diệu kì, của bao thế hệ nhân dân lao động. Mỗi hình sông dáng núi, bóng đèo đều in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất của những con người Đất Việt. Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không có nhân dân bao đời với tâm hồn cao quý, khát vọng lãng mạn thì không có những thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời chiêm ngưỡng. Từ những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể, nổi tiếng của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến những khái quát tính chiết luận Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng màng một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn nghìn năm ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta… Đâu chỉ có những địa danh như núi vọng phu, hòn Trống Mái, sự hóa thân diệu kì của nhân dân mà tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng, lối sống của ông cha ta. Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha thuở trước, Nguyễn Khoa Điềm không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọc nguyên vẹn cảm xúc ấy. Khúc thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và chất trữ tình, giữa thế núi kì thú và Nguyễn Khoa Điềm đã cắt những câu hỏi đó bằng suy từ lắng của mình, bằng những hình ảnh giàu chất thơ. Mạch thơ thể hiện rõ tư duy logic, đi từ cụ thể đến khái quát, một cách khái quát đầy cảm xúc, rưng rưng xúc động. Đoạn thơ cũng đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết. Chính chất liệu dân gian độc đáo, mới mẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổng. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã có một quá trình phát triển trong lịch sử dân tộc nói chung, văn học nói riêng. Những nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng nói lên vai trò của nhân dân như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… Đến giai đoạn văn học cách mạng, tư tưởng của nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và đóng góp to lớn của nhân dân trong vô vàn những cuộc đấu tranh ác liệt. Điều này được thể hiện qua một số cây bút tiêu biểu như Đất Nước Nguyễn Đình Thi, Đường tới thành phố Hữu Thỉnh,… Tuy nhiên, chỉ khi đến “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã trở thành hệ quy chiếu khiến nhà thơ có những khám phá mới mẻ, sâu sắc về Đất Nước qua không gian địa lí, thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa. Đặc biệt, Đất Nước của nhân dân đã vang lên thành lời thành tiếng Để Đất Nước là Đất Nước của nhân Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại. Thành công của đoạn trích Đất Nước là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không khí, một giọng điệu, đưa ta vào thế giới gần gũi của ca dao dân ca, truyền thuyết văn hóa. Đó chính là nét đặc sắc thẩm mỹ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của da dao thần thoại”. Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và trữ tình, suy tư sâu lắng và cảm xúc nồng nàn. Chất liệu văn hóa dân gian được vận dụng sáng tạo. Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ngợi ca tâm hồn nhân dân, khẳng định nòi giống mà dáng đứng Việt Nam. Nhân dân là chủ Đất Nước, Đất Nước là của nhân dân. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã có một quá trình phát triển trong lịch sử dân tộc nói chung, văn học nói riêng. Những nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng nói lên vai trò của nhân dân như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… Đến giai đoạn văn học cách mạng, tư tưởng của nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và đóng góp to lớn của nhân dân trong vô vàn những cuộc đấu tranh ác liệt. Điều này được thể hiện qua một số cây bút tiêu biểu như Đất Nước Nguyễn Đình Thi, Đường tới thành phố Hữu Thỉnh,… Tuy nhiên, chỉ khi đến “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo. Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước – Bài tham khảo 5 Ôi! Nếu thiên thần lên tiếng gọiBỏ nước Nga lên sống ở thiên đườngTôi sẽ đáp thiên đường xin để đấyCho tôi ở cùng Tổ quốc yêu thương Tình yêu tha thiết của Ênixin dành cho nước Nga cũng là tiếng lòng của biết bao nhiêu nghệ sĩ khắp dải đất Việt Nam. Cùng thể hiện tình yêu quê hương, đât nước sâu nặng nhưng mỗi nhà thơ lại có tiếng nói riêng độc đáo. Trường ca “Mặt đường khát vọng” với “Đất Nước” đã đưa chúng ta đến một Đất Nước giản dị mà rất đỗi đời thường – Đất Nước của nhân dân. Với một lối đi cho riêng mình, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện sâu sắc về địa lí, lịch sử, văn hóa của Đất Nước Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng Phu………………………………………………………Những cuộc đời đã hóa núi sông ta… Chia sẻ về ý tưởng đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm từng khẳng định Tôi cố gắng… khác. Quả đúng như vậy, kháp phá vẻ đẹp của Đất Nước trong không gian mênh mông, Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ngợi ca núi sông hùng vĩ mà thơ mộng với rừng xanh đồi cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt, biển lúa mênh mông, cánh cò dập dờn… như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và bao nhà thơ khác. Với một lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ sâu sắc. Nguyễn Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam, từ miền ngược tới miền xuôi, từ núi rừng tới biển cả, tự hào về bao danh lam thắng cảnh của Đất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và bao địa danh mang tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng năm in góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non NghiênCon có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Thực chất những danh thắng ấy là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lí từ hàng ngàn, hàng vạn năm chứ. Không khám phá dưới góc độ khoa học, với suy từ sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về những danh lam thắng cảnh ấy. Những núi vọng phu trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính là sự hóa thân của những người vợ, người chồng. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt đã tạo nên dáng núi kì lạ ấy. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh là biểu tượng đẹp đẽ cho tình yêu thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõi tiên bất chấp luật lệ thiên đình, nguyện hóa đá để muôn đời ở mãi bên nhau. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về tinh thần yêu nước nồng nàn, khí phách kiên cường bất khuất của những người dân đất Việt. Không có tinh thần đoàn kết một lòng tất không thể có Tổ quốc linh thiêng, hùng vĩ. Không có tinh thần vượt khó, hiếu học, không có núi bút non Nghiên. Và bất cứ danh lam thắng cảnh nào trên dải đất hình chữ S cũng là máu thịt của nhân dân. Vậy là mọi danh lam thắng cảnh đều là kết quả của sự hóa thân diệu kì, của bao thế hệ nhân dân lao động. Mỗi hình sông dáng núi, bóng đèo đều in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất của những con người Đất Việt Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không có nhân dân bao đời với tâm hồn cao quí, khát vọng lãng mạn thì không có những thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời chiêm ngưỡng. Từ những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể, nổi tiếng của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến những khái quát tính chiết luận Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng màng một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn nghìn năn ta cũng thấyNhũng cuộc đời đã hóa núi sông ta… Đâu chỉ có những địa dnah như núi vọng phu, hòn Trống Mái, sự hóa thân diệu kì của nhân dân mà tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng, lối sống của ông cha ta. Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha thuở trước, Nguyễn Khoa Điềm không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọc nguyên vẹn cảm xúc ấy. Khúc thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và chất trữ tình, giữa thế núi kì thú và Nguyễn Khoa Điềm đã cắt những câu hỏi đó bằng suy từ lắng của mình, bằng những hình ảnh giàu chất thơ. Mạch thơ thể hiện rõ tư duy logic, đi từ cụ thể đến khái quát, một cách khái quát đầy cảm xúc, rưng rưng xúc động. Đoạn thơ cũng đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết. Chính chất liệu dân gian độc đáo, mới mẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổng. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã có một quá trình phát triển trong lịch sử dân tộc nói chung, văn học nói riêng. Những nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng nói lên vai trò của nhân dân như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… Đến giai đoạn văn học cách mạng, tư tưởng của nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và đóng góp to lớn của nhân dân trong vô vàn những cuộc đấu tranh ác liệt. Điều này được thể hiện qua một số cây bút tiêu biểu như Đất Nước Nguyễn Đình Thi, Đường tới thành phố Hữu Thỉnh,… Tuy nhiên, chỉ khi đến “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã trở thành hệ quy chiếu khiến nhà thơ có những khám phá mới mẻ, sâu sắc về Đất Nước qua không gian địa lí, thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa. Đặc biệt, Đất Nước của nhân dân đã vang lên thành lời thành tiếng Để Đất Nước là Đất Nước của nhân Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại Thành công của đoạn trích Đất Nước là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không khí, một giọng điệu, đưa ta vào thế giới gần gũi của ca dao dân ca, truyền thuyết văn hóa. Đó chính là nét đặc sắc thẩm mĩ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của da dao thần thoại” Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và trữ tình, suy tư sâu lắng và cảm xúc nồng nàn. Chất liệu văn hóa dân gian được vận dụng sáng tạo. Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ngợi ca tâm hồn nhân dân, khẳng định nòi giống mà dáng đừng Việt Nam. Nhân dân là chủ Đất Nước, Đất Nước là của nhân dân. – Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 12 Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ”Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta” trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 12 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 và biết cách soạn bài lớp 12 và các Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 trong sách Văn tập 1 và tập 2, mời các bạn tham khảo. Các bài liên quan đến tác phẩm Soạn văn bài Đất nước Nguyễn Khoa Điềm Soạn bài lớp 12 Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Dàn ý + 6 Bài văn mẫu lớp 12Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nướcI. Dàn ý Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nướcDàn ý Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 1Dàn ý Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 2II. Văn mẫu Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nướcTư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 1Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 2Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 3Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 4Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 5Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 6Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 7Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 8Tham khảo thêm Mở bài Đất nước của Nguyễn Khoa ĐiềmLịch thi THPT Quốc Gia 2023Văn mẫu lớp 12 Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ''Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta'' trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm được tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 12 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 12 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham Dàn ý Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nướcDàn ý Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 11. Mở bàiGiới thiệu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và Đất Thân bài“Núi Vọng Phu” địa danh nổi tiếng gắn với sự tích người vợ hóa đá chờ chồng → khẳng định tình cảm thủy chung, son sắt của người phụ nữ Việt Trống Mái hai tảng đá xếp chồng lên nhau nằm trên một ngọn núi ở Sầm Sơn, Thanh Hóa → khẳng định tình cảm, sự gắn bó trong tình cảm gia đình, tình cảm vợ Hùng Vương gắn với truyền thuyết 99 con voi quây bên đền thờ các vua Hùng để phục Tổ → khẳng định niềm tự hào lịch sử vua Bút, Non Nghiên có hình cây bút và nghiên mực ở Quảng Ngãi, nói lên truyền thống hiếu học của người Việt Long thành thắng cảnh Hạ Long, một di sản thiên nhiên thế Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm sơn danh của những người có công với nước ở Nam Bộ, tự hào về truyền thống chống ngoại xâm của dân ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước.→ Những địa danh được cảm nhận qua những số phận, những cảnh ngộ của con người, sự hóa thân của những con người không tên tuổi như một phần máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân bao đời đã tạo nên Đất Nước này, đã ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng Kết bàiKhái quát lại nội dung và giá trị của đoạn trích Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp phần không nhỏ làm nên sự đa dạng, phong phú cho nền văn học Việt ý Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 2I/ Mở bài- Giới thiêu tác giả, tác phẩm- Giới thiệu đoạn thơ“ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu,…Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.II/ Thân bài1. Trước hết, tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu địa lí về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất Nhà thơ đã kể, liệt kê một loạt kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước. Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay, ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu thương thủy chung để ta có những “núi Vọng Phu”, những “hòn Trống mái” như những biểu tượng văn hóa. Hay vẻ đẹp lẽ sống anh hùng của dân tộc trong buổi đầu giữ nước để ta có những “ao đầm”… như những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng…→ Thiên nhiên được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên, không Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân- Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc.“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta…”.III/ Kết bài- Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn Văn mẫu Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nướcTư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 1"Những người con gái con traiĐẹp hơn hoa hồng cứng hơn sắt thépXa nhau không hề rơi nước mắtNước mắt dành cho ngày gặp mặt"Hơn lúc nào hết, tình yêu quê hương đất nước là huyệt thần kinh nhạy bén, là cảm hứng, lẽ sống cao đẹp nhất của con người Việt Nam. Ta đã từng gặp gỡ hình ảnh đất nước anh hùng trong kháng chiến chống Pháp mang hồn thu Hà Nội của Nguyễn Đình Thi, một đất nước cổ kính, mang hồn dân gian Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm hay sự hóa thân của đất nước trong dòng sông xanh đầy ắp kỷ niệm trong thơ Tế Hanh. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã tìm được một cách nói riêng để chương thơ “Đất nước” của ông đem đến cho bạn đọc những rung cảm mới về quê hương đất nước đất nước của nhân Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ như Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Lê Anh Xuân, Lâm Thị Mỹ Dạ,.. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tích cực tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc. “Đất nước” thuộc phần đầu chương V, trường ca "Mặt đường khát vọng". Trường ca được viết tại chiến khu Trị - Thiên năm 1971. Nguyễn Khoa Điềm viết trường ca để kêu gọi sự thức tỉnh của thanh niên, tuổi trẻ các vùng địch tạm chiếm ở miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ, xuống đường, hòa nhịp vào cuộc kháng chiến của dân ở phần đầu tác giả nói về lịch sử đất nước cùng lối định nghĩa đất nước bằng thơ theo cách riêng của mình thì bốn mươi bảy dòng thơ tiếp theo, nhà thơ đi sâu vào tư tưởng đất nước của nhân dân trên tất cả các bình diện không gian địa lý, thời gian lịch sử và văn hóa phong tục của nhân tưởng đất nước của nhân dân được hiện lên qua phương diện địa lý trong cách nhìn độc đáo của tác giả. Một loạt những danh lam thắng cảnh trên đất nước ta hiện ra trước mắt người đọc Vịnh Hạ Long, những di tích văn hóa như hòn Vọng Phu, núi Bút, non Nghiên; những di tích lịch sử như làng Gióng, đất Tổ.“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu”Câu thơ gợi ta liên tưởng đến hòn Vọng Phu và câu chuyện cảm động về lòng chung thủy, tình yêu của người vợ với chồng. Những vần thơ như gợi nên một nỗi buồn man mác nơi đáy lòng, liệu rằng hôm nay những người đàn bà của đất nước Việt Nam có giống như Hòn Vọng Phu chờ chồng mòn mỏi hay không…? Qua hình ảnh đó, ta thấy được một tâm hồn và sức sống mãnh liệt của nhân dân ta. Trên mảnh đất Việt Nam có biết bao tảng đá lớn giống như những người đàn bà bồng con chờ chồng. Đó vốn chỉ là một hòn đá vô tri nhưng lại mang vẻ đẹp của đời sống nhân dân ta từ ngàn đời. Bởi nó mang trong mình một linh hồn dân tộc cao quý, tiêu biểu cho đời sống tinh thần của những người đàn bà thương con, yêu chồng, nguyện hóa đá đợi chồng, tượng trưng cho sự thủy chung, tình nghĩa của nhân dân ta. Không chỉ kết tinh nên một hòn Vọng Phu mà đó còn là sự hóa thân thành huyền thoại của hòn Trống Mái“Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”Hòn Trống Mái là một cảnh đẹp ở Sầm Sơn. Đó là hai tảng đá lớn hình thù ngộ nghĩnh, xếp chồng lên một nền đá chênh vênh. Nhân dân ta đã tưởng tượng 2 hòn đá ấy là hòn Trống và hòn Mái. Từ đó, hòn Trống, Mái trở thành biểu tượng cho tình yêu đôi lứa thủy chung, mãi mãi không chia chỉ là sự hòa hợp giữa thiên nhiên và tình yêu đôi lứa, Nguyễn Khoa Điềm còn phát hiện ra nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước ta trong sự hóa thân của truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại”Câu thơ được lấy cảm hứng từ truyền thuyết Thánh Gióng. Một cậu bé từ không biết nói trong suốt ba năm đã thốt ra câu nói đầu tiên là xin đi đánh giặc bảo vệ quê hương. Sau khi đánh giặc xong, Thánh Gióng cởi áo giáp sắt rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay về trời. Những ao, đầm còn lại ngày hôm nay được cho là dấu tích gót ngựa Thánh Gióng. Tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm phải mặn nồng đến nhường nào thì nhân dân ta mới có thể tưởng tượng kỳ diệu đến như vậy về những ao, đầm quen thuộc nơi quê sự hóa thân kỳ diệu nữa được hiện ra, đó là hình ảnh người học trò nghèo hóa thân làm nên núi Bút, non Nghiên“Người học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên”Núi Bút, non Nghiên là những ngọn núi đẹp trông như hình cái bút, nghiên mực. Nhân dân ta lấy đặc điểm hình dáng của núi đặt tên thành núi Bút, non Nghiên. Những người học trò xưa thì cái bút, cái mực là một vật dụng vô cùng quan trọng. Vì thế mà qua đó, hình ảnh núi Bút, non Nghiên trở thành biểu tượng cho truyền thống hiếu học của người niềm tự hào, say sưa với vẻ đẹp đất nước, nhà thơ lại một lần nữa vận dụng sự quan sát tinh tế và khả năng liên tưởng sáng tạo tài hoa“Chín mươi chín con voi góp mình dựng nên đất Tổ Hùng Vương”.Câu thơ được xây dựng dựa trên truyền thuyết về đất tổ Vua Hùng. Chín mươi chín con voi là chín mươi chín ngọn núi bao quanh núi Hi Cương, nơi có đền thờ các Vua Hùng. Thực chất, chín chín con voi là tượng trưng của lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc của nhân dân suốt bốn nghìn năm. Vì vậy, mỗi người dân Việt Nam hàng năm không thể quên được ngày tháng lịch sử mùng mười tháng ba“Hàng năm ăn đâu, làm đâuCũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”Nhà thơ mở rộng hết khả năng sáng tạo và hình dung những dòng sông hiền hòa, xanh thẳm, chảy qua các làng mạc, xứ sở như Cửu Long Giang là sự hóa thân của những con rồng im lặng, thân thương “Những con rồng nằm in góp dòng sông xanh thẳm”. Ngay cả những con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh “Con có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Nhà thơ nhìn tất cả những thứ gần gũi, giản dị, thân thuộc nhất trong đời sống nhân dân vào hình tượng Đất Nước lớn lao.“Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”Những đóng góp thầm lặng của nhân dân đã được đặt tên cho sông núi ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, bà Điểm,... Cảnh núi sông hội tụ lấp lánh qua những vần thơ đẹp, soi bóng tâm hồn nhân dân và những cuộc đời vô danh, càng thấm thía một điều bình dị rằng nhân dân đã làm nên đất nước. Mọi danh lam thắng cảnh chỉ thực sự mang ý nghĩa cao cả và lấp lánh dòng máu tự hào dân tộc khi được cảm nhận qua đời sống tâm hồn của nhân dân“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình một ao ước một lối sống ông cha”Tất cả như hiện ra trước mắt Nguyễn Khoa Điềm, đó là những ruộng đồng, gò bãi đều do sự hóa thân của nhân dân mà thành. Và sự hóa thân ấy là sự hóa thân của nhân dân suốt 4000 năm lịch sử“Ôi đất nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta....”Thán từ "ôi" và dấu ba chấm cuối đoạn thơ diễn tả sự xúc động sâu sắc, chân thành và niềm tự hào về chiều dài xa xăm bất tận của đất nước của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm dựng nước của dân tộc. Câu thơ "những cuộc đời đã hóa núi sông ta" vang lên một cách đầy kiêu hãnh, tự hào. Chính nhân dân đã sống và cống hiến như một huyền thoại làm nên hình sông, dáng núi suốt dọc chiều dài lịch sử đất nước của chúng phương diện thời gian lịch sử, nhà thơ cũng khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân. Đó là lời gọi, lời nhắn nhủ chân thành, tha thiết của chàng trai với cô gái người mình yêu“Em ơi em hãy nhìn rất xaVào bốn nghìn năm đất nướcNăm tháng nào cũng người người lớp lớpCon gái con trai bằng tuổi chúng ta”Đây là một cái nhìn mang tầm vóc lịch sử, nhân loại và thời đại. Đó là cái nhìn toàn diện cả chiều dài và chiều sâu. Dài về quãng thời gian oai hùng bốn nghìn năm, sâu về những chiến công và niềm tự hào của dân tộc xuyên suốt thời kỳ ấy. Ở đây, nhà thơ tập trung nói về những con người vô danh, bình dị. Họ là lớp lớp những người con gái con trai bằng tuổi chúng ta. Trong suốt bốn nghìn năm ấy họ đã xây dựng, bảo vệ giữ gìn đất nước này. Cụm từ "năm tháng nào" không xác định kết hợp với từ "lớp lớp" chỉ sự đông đảo, các danh từ chung "con gái, con trai" tạo nên những vần thơ bình dị nhưng giàu sức gợi cảm. Và họ nối tiếp nhau đứng lên xây dựng và giữ gìn quê hương bằng biết bao mồ hôi, xương máu"Cần cù làm lụngKhi có giặc người con trai ra trậnNgười con gái trở về nuôi cái cùng conNgày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh".Những người "cần cù làm lụng" ở đây chỉ nhân dân. Họ đã vất vả dãi dầu một nắng hai sương để làm nên sự sống và phồn thịnh cho đất nước. Những hạt gạo mỗi mùa thu hoạch, những bí kíp truyền từ đời này qua đời khác. Tất cả đều thể hiện một nét đẹp cần cù, chịu thương chịu khó của nhân dân, làm nên truyền thống, lối sống cao đẹp của dân tộc. Không chỉ xây dựng mà trong những giây phút lâm nguy, đầy thử thách ấy của lịch sử, người con trai sẵn sàng ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con. Họ đã sẵn sàng sống xa nhau, hi sinh hạnh phúc riêng tư để bảo vệ Tổ quốc. Thật thân thương, gần gũi và bình dị biết những cuộc kháng chiến, có biết bao con người mang trong mình oai danh lừng lẫy với tên gọi anh hùng, được lưu danh sử sách ngàn đời. Nhưng với tư tưởng đất nước của nhân dân, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh đến những người lao động thầm lặng, vô danh"Nhưng em biết khôngCó biết bao người con gái con traiTrong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổiHọ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất Nước"Họ là những người con gái, con trai, chưa một lần được lưu danh sử sách "không ai nhớ mặt đặt tên" nhưng cuộc đời thầm lặng của mỗi người đã hóa núi sông ta. Những điều bình dị thật sự đã làm nên một lịch sử vĩ đại ấy, một núi sông non nước vang vọng khí phách của giống dân không chỉ là người chiến đấu mà còn là người giữ gìn văn hóa dân tộc"Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồngHọ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúiHọ truyền giọng điệu mình cho con tập nóiHọ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dânHọ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây mà hái trái" .Trước hết, nhân dân là người tạo nên những giá trị văn minh vật chất cho đất nước ta "Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng". Nước ta nổi tiếng với nền văn hóa lúa nước từ bao đời nay. Trong hạt lúa bé nhỏ ấy, có mồ hôi công sức lao động của những người nông dân vất vả dãi dầu một nắng hai sương. Nhưng vĩ đại hơn, đó còn là sự hội tụ của phẩm chất, tinh thần lao động cần cù, chịu thương chịu khó của nhân dân. Không chỉ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng, nhân dân còn là người "chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi" . Thuở xa xưa nhất của lịch sử, con người đã sống trong những hang động đầy bóng tối. Nhân dân ta có tập quán dùng rơm con cúi để giữ lửa. Trong mỗi con cúi được bện từ rơm, rạ mộc mạc truyền từ nhà này sang nhà khác, từ đời trước đến đời sau. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm Là một trải nghiệm đầy sâu sắc về sức mạnh và công lao của nhân dân, không có những điều đó thì đất nước sao được tuyệt vời như bây dân còn là người "truyền giọng điệu mình cho con tập nói". Chúng ta đều biết rằng mỗi quốc gia đều có một ngôn ngữ và một kho tàng từ vựng quý báu. Bởi đó không chỉ là kết quả của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước mà còn nơi lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Chính nhân dân đã bồi đắp và lưu truyền qua biết bao thế hệ từ khi còn là một “búp măng non”.Nhân dân còn là người "gánh tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân". Câu thơ gợi nhắc lại những năm tháng gian lao của cộng đồng người dân Việt trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Thiên tai và chiến tranh luôn là những ám ảnh của dân tộc nhưng cũng nhờ đó mà biết bao vùng đất mới được khám phá và đặt bằng những tên gọi thân thương. Mỗi tên xã tên làng đều gắn liền với những chặng hành trình nhọc nhằn gian khổ mà không ít vinh quang của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Tất cả đều nằm trên một chữ S thân dân cũng là người đắp đập be bờ cho người sau trồng cây mà hái trái. Câu thơ này được xây dựng trên truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh. Sự dữ dội của hai chàng trai ấy đã khiến những người dân phải đắp đập be bờ ngăn sông, chắn lũ, nhờ đó mà đất nước làng quê mới được bình yên, tận hưởng hoa thơm, quả ngọt hay chính là cuộc sống yên bình, hạnh phúc của ngày hôm dân còn là người chống ngoại xâm và diệt nội thù."Có ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bại"Lịch sử của dân tộc Việt Nam đã trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta phải liên tiếp chống giặc ngoại xâm và diệt nội thù. Nhưng họ đều anh dũng đoàn kết một lòng đứng lên giết giặc. Nghệ thuật điệp từ "có"..."thì" cho thấy tinh thần tự nguyện, sẵn sàng chiến đấu hi sinh để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc một cách tự "họ" trong các câu thơ trên được lặp lại nhiều lần, đứng ở đầu mỗi dòng thơ đã tạo nên giá trị gợi hình, gợi cảm. Hình ảnh đông đảo nhân dân nối tiếp nhau lao động, xây dựng, bảo vệ đất nước hiện ra ngay trong những vần thơ cả ý thơ như dồn nén lại đến cuối cùng, Nguyễn Khoa Điềm với niềm tự hào kiêu hãnh đưa ra những lời khẳng định chắc nịch"Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dânĐất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại"."Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân" vì nhân dân là người chiến đấu, xây dựng, bảo vệ đất nước suốt bốn nghìn năm lịch sử. Đất Nước được hình thành từ những bản sắc văn hóa dân tộc chan chứa vẻ đẹp tâm hồn nhân dân. Đó là vẻ đẹp của lòng yêu nước, cần cù lao động, hiếu học, chung thủy trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa, kiên cường trong chiến đấu, lạc quan, yêu đời trong mọi hoàn Nước của Nhân dân là “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Vì ca dao, thần thoại chính là sáng tác của nhân dân. Những ca dao, thần thoại ấy được đúc kết nên từ kho tàng ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam, phản ánh đời sống, tình cảm của nhân dân qua bao biến động thăng trầm của lịch sử. Đó là những khoảnh khắc“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôiBiết quý công cầm vàng những ngày lặn lộiBiết trồng tre đợi ngày thành gậyĐi trả thù mà không sợ dài lâu…”Ở đoạn thơ này, nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao thành lời thơ đằm thắm, ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã biết và bày tỏ một cách dung dị, mộc mạc và gần gũi biết bao. Không chỉ say đắm trong tình yêu từ thuở còn trong nôi, người Việt còn rất quý trọng tình nghĩa. "Công cầm vàng" là những gian nan, vất vả mà con người phải trải qua. Đó cũng là một nét đẹp trong sự nghĩa tình của dân tộc. Và lại một lần nữa, truyền thuyết Thánh Gióng lại được gợi lại để nói về tinh thần quyết liệt trong chiến đấu của người dân Việt. Như vậy, say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa, quyết liệt trong trả thù chiến đấu là bản sắc tinh thần nhânĐoạn trích khép lại bằng hình ảnh dòng sông và câu hát“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâuMà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hátNgười đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thácGợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…”Khổ thơ khép lại trong hình ảnh đất nước ta đẹp hiền hòa, vĩnh cửu như một dòng sông vô tận chảy từ quá khứ đến hiện tại, tương lai. Trên dòng sông ấy, âm vang những sắc màu văn hóa Việt Nam, phẩm chất tâm hồn Việt Nam. Thật vô cùng tự hào và yêu quý biết bao!Đất Nước đã được cảm nhận ở nhiều phương diện từ văn hóa - lịch sử, địa lý - thời gian đến không gian của đất nước. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước mình. Bên cạnh đó, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân. Đất nước là sự hội tụ, kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân chính là người đã làm ra đất tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 2Nền văn học Việt Nam đã ghi danh tên tuổi của bao nhà văn, nhà thơ, trong đó không thể không nhắc đến tác giả Nguyễn Khoa Điềm cùng bản Trường ca Mặt đường khát vọng. Nổi bật trong bản trường ca là văn bản Đất nước. Ở đây, tác giả đã khẳng định tư tưởng đất nước là của nhân dân“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu….………………………………………Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”Nguyễn Khoa Điềm thật khéo léo và tinh tế khi đã vận dụng sáng tạo thành công chất liệu dân gian vào bài thơ của mình để tạo nét riêng biệt không thể nhầm lẫn. Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng đến hóa đá của người phụ nữ. Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ chồng chung thủy. Dù ở bất cứ nơi nào trên đất nước, bờ cõi này thì tình cảm yêu thương, gắn bó vợ chồng vẫn là những tình cảm vô cùng tốt đẹp xứng đáng được tôn chỉ có tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng, Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Đó là vị anh hùng Thánh Gióng nhỏ tuổi nhưng khi có giặc anh dũng ra trận đánh đuổi giặc Ân lấy lại độc lập cho nước nhà. Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự quây quần của đàn voi chín mươi chín con. Tất cả những câu truyện, những sự tích, truyền thuyết trên đều rất thân thuộc với mỗi thế hệ con dân trên Đất nước này, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của chúng ta có thể tự hào rằng Đất nước này là đất nước của những con người hiếu học. Biết bao tấm gương nghèo vượt khó vươn kên trở thành nhân tài cho đất nước, đánh dấu công lao của mình bằng những núi Bút, non Nghiên. Dù họ là những người nổi tiếng hay chỉ là những con người vô danh thì họ cũng đáng để chúng ta biết ơn, học tập và noi nước còn được hình thành từ những điều hết sức nhỏ bé những quả núi hình con cóc, con gà quây quần cũng giúp cho Hạ Long trở thành di sản thế giới. Những ngọn núi khác cũng được đặt theo tên của các vị anh hùng để con cháu mai sau không quên ơn họ và tôn vinh những giá trị quý báu mà họ đã gây dựng cho nước nhà. Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước. Ở trên đất nước này đâu đâu cũng mang dáng dấp, những kỉ niệm của thế hệ ông cha. Hành trình hơn bốn nghìn năm lịch sử vẫn sẽ tiếp tục mãi mãi và cũng sẽ có nhiều hơn những kỉ niệm, những giai thoại được ghi vào sử sách. Tuy nhiên, không vì thế mà lối sống cha ông đi vào dĩ vãng, nó mãi là những tiếng âm vang, là niềm tự hào của con cháu sau năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung vẫn để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc và giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp trường tồn với thời gian và giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 3Con người Việt Nam ta từ xưa đến nay tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm luôn chảy trong dòng máu, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ gian khổ, có biết bao nhiêu bài thơ, bài văn ra đời để cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân và dân ta ngoài mặt trận. Một trong số các tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước đó không thể không kể đến Trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mà nổi bật là đoạn trích Đất nước. Qua đoạn trích, tác giả đã khẳng định tư tưởng đất nước là của nhân Khoa Điềm được biết đến là nhà thơ với phong cách trữ tình chính luận độc đáo. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thu hút, hấp dẫn người đọc bởi sự đan kết cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của một thanh niên tri thức tự ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu vì đất nước và nhân dân. “Trường ca Mặt đường khát vọng” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ văn của ông. Đoạn trích Đất nước thuộc chương V của bản Trường ca mang đến cho bạn đọc cái nhìn mới mẻ về hình hài của Đất nước. Bên cạnh đó, tác giả cũng ngầm khẳng định Đất nước là của nhân dân.“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu….………………………………………Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”Nguyễn Khoa Điềm thật khéo léo và tinh tế khi đã vận dụng sáng tạo thành công chất liệu dân gian vào bài thơ của mình để tạo nét riêng biệt không thể nhầm lẫn. Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng đến hóa đá của người phụ nữ. Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ chồng chung thủy. Dù ở bất cứ nơi nào trên đất nước, bờ cõi này thì tình cảm yêu thương, gắn bó vợ chồng vẫn là những tình cảm vô cùng tốt đẹp xứng đáng được tôn chỉ có tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng, Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Đó là vị anh hùng Thánh Gióng nhỏ tuổi nhưng khi có giặc anh dũng ra trận đánh đuổi giặc Ân lấy lại độc lập cho nước nhà. Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự quây quần của đàn voi chín mươi chín con. Tất cả những câu chuyện, những sự tích, truyền thuyết trên đều rất thân thuộc với mỗi thế hệ con dân trên Đất nước này, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của chúng ta có thể tự hào rằng Đất nước này là đất nước của những con người hiếu học. Biết bao tấm gương nghèo vượt khó vươn lên trở thành nhân tài cho đất nước, đánh dấu công lao của mình bằng những núi Bút, non Nghiên. Dù họ là những người nổi tiếng hay chỉ là những con người vô danh thì họ cũng đáng để chúng ta biết ơn, học tập và noi nước còn được hình thành từ những điều hết sức nhỏ bé những quả núi hình con cóc, con gà quây quần cũng giúp cho Hạ Long trở thành di sản thế giới. Những ngọn núi khác cũng được đặt theo tên của các vị anh hùng để con cháu mai sau không quên ơn họ và tôn vinh những giá trị quý báu mà họ đã gây dựng cho nước nhà. Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước. Ở trên đất nước này đâu đâu cũng mang dáng dấp, những kỉ niệm của thế hệ ông cha. Hành trình hơn bốn nghìn năm lịch sử vẫn sẽ tiếp tục mãi mãi và cũng sẽ có nhiều hơn những kỉ niệm, những giai thoại được ghi vào sử sách. Tuy nhiên, không vì thế mà lối sống cha ông đi vào dĩ vãng, nó mãi là những tiếng âm vang, là niềm tự hào của con cháu sau năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cùng với trường ca “Mặt đường khát vọng” vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng đẹp đẽ, đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người Việt Nam trước đây, bây giờ và cả sau này. Bản trường ca của tác giả Nguyễn Khoa Điềm làm ta thêm hiểu và yêu Đất nước đồng thời thôi thúc bản thân hành động để bảo vệ và phát triển đất nước tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 4Nguyễn Khoa Điềm là gương mặt nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Viết về cuộc kháng chiến bằng những trải nghiệm chân thực với hồn thơ giàu chất suy tư, lắng đọng, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được tình yêu nước, tâm tư của người trí thức tích cực tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân. “Đất nước” là đoạn trích đặc sắc trích trong tác phẩm trường ca Mặt đường khát vọng, tác phẩm thể hiện rõ nét tài năng và tâm huyết của Nguyễn Khoa Điềm. Qua bài thơ tác giả đã thể hiện được những cảm nhận riêng biệt mà vô cùng độc đáo và đất bài thơ Đất nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được cái nhìn sâu sắc khi phát hiện ra những biểu hiện đầy mới mẻ của khái niệm “đất nước”. Trước hết, đó chính là những phát hiện mới mẻ về phương diện không gian địa lí của đất nước“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước nhưng núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”Trong nhận thức của nhà thơ, không gian địa lí, địa danh, hình hài của đất nước được tạo nên từ chính những điều gần gũi, thiêng liêng nhất bởi đó là sự hóa thân của nhân dân Hòn Vọng Phu được làm nên từ nỗi nhớ chồng của người vợ, tình yêu thủy chung của cặp vợ chồng làm nên hòn Trống Mái, đó còn là những địa danh được làm nên từ truyền thống chống giặc hào hùng, bất khuất “gót ngựa Thánh Gióng” từ nền văn hóa đậm đà của dân tộc “chín mươi chín con voi”.Nhân dân, những con người bình dị cùng nhau sinh sống trong đất nước, đó là những con người vô danh nhưng những con người vô danh ấy đã cùng nhau gây dựng nên cái hữu danh của đất nước. Mỗi người đều lặng lẽ góp phần làm nên vẻ đẹp, sự kì thú của thiên nhiên cũng như làm phong phú hơn cho những truyền thống văn hóa của đất nước.“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non NghiênCon cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”Đất nước là hóa thân, hình ảnh của nhân dân, những con người vô danh nhưng lại có thể làm nên hình hài, diện mạo cho đất nước. Không chỉ hướng ngòi bút đến sự trù phú, tươi đẹp của thiên nhiên đất nước mà tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện sự suy ngẫm mang tính triết lí sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn của con người, lịch sử Việt Nam. Đó là truyền thống hiếu học, là tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của của những con người Việt Nam để làm nên những truyền thống hào hùng, đáng tự hào của dân tộc.“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta”Từ những cuộc đời, những hóa thân cụ thể, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên và con người, giữa đất nước với nhân dân. Cũng qua khổ thơ, tác giả đã bộc lộ được niềm tự hào khôn xiết trước vẻ đẹp của thiên nhiên, vóc dáng, dáng hình của quê hương và những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc. Đó còn là thái độ yêu thương, trân trọng, tự hào trước những đóng góp lớn lao của thế hệ cha ông đi nước là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận trữ tình và chất suy tưởng mang đến những giá trị tư tưởng đặc sắc cho tác phẩm. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng linh hoạt chất liệu dân gian, đưa vào những yếu tố văn hóa đậm nét, nổi bật để thể hiện những cảm nhận độc đáo về đất thơ đã thể hiện được tư tưởng đất nước của nhân dân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, đây cũng là đóng góp mới lạ, độc đáo về chủ đề đất nước. Đất nước đã mang đến cho người đọc bao cảm xúc tự hào, khơi dậy ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 5Nguyễn Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam, từ miền ngược tới miền xuôi, từ núi rừng tới biển cả, tự hào về bao danh lam thắng cảnh của Đất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và bao địa danh mang tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non NghiênCon có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmThực chất những danh thắng ấy là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lí từ hàng ngàn, hàng vạn năm chứ. Không khám phá dưới góc độ khoa học, với suy từ sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về những danh lam thắng cảnh ấy. Những núi vọng phu trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính là sự hóa thân của những người vợ, người chồng. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt đã tạo nên dáng núi kì lạ ấy. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh là biểu tượng đẹp đẽ cho tình yêu thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõi tiên bất chấp luật lệ thiên đình, nguyện hóa đá để muôn đời ở mãi bên nhau. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về tinh thần yêu nước nồng nàn, khí phách kiên cường bất khuất của những người dân đất Việt. Không có tinh thần đoàn kết một lòng tất không thể có Tổ quốc linh thiêng, hùng vĩ. Không có tinh thần vượt khó, hiếu học, không có núi bút non Nghiên. Và bất cứ danh lam thắng cảnh nào trên dải đất hình chữ S cũng là máu thịt của nhân dân. Vậy là mọi danh lam thắng cảnh đều là kết quả của sự hóa thân diệu kì, của bao thế hệ nhân dân lao động. Mỗi hình sông dáng núi, bóng đèo đều in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất của những con người Đất Việt. Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không có nhân dân bao đời với tâm hồn cao quý, khát vọng lãng mạn thì không có những thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời chiêm những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể, nổi tiếng của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến những khái quát tính chiết luậnVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng màng một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn nghìn năm ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta…Đâu chỉ có những địa danh như núi vọng phu, hòn Trống Mái, sự hóa thân diệu kì của nhân dân mà tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng, lối sống của ông cha ta. Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha thuở trước, Nguyễn Khoa Điềm không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọc nguyên vẹn cảm xúc ấy. Khúc thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và chất trữ tình, giữa thế núi kì thú và Nguyễn Khoa Điềm đã cắt những câu hỏi đó bằng suy từ lắng của mình, bằng những hình ảnh giàu chất thơ thể hiện rõ tư duy logic, đi từ cụ thể đến khái quát, một cách khái quát đầy cảm xúc, rưng rưng xúc động. Đoạn thơ cũng đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết. Chính chất liệu dân gian độc đáo, mới mẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổngTư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 6Tình yêu tha thiết của Lênin dành cho nước Nga cũng là tiếng lòng của biết bao nhiêu nghệ sĩ khắp dải đất Việt Nam. Cùng thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng nhưng mỗi nhà thơ lại có tiếng nói riêng độc đáo. Trường ca “Mặt đường khát vọng” với “Đất Nước” đã đưa chúng ta đến một Đất Nước giản dị mà rất đỗi đời thường – Đất Nước của nhân dân. Với một lối đi cho riêng mình, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện sâu sắc về địa lí, lịch sử, văn hóa của Đất NướcNhững người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng Phu………………………………………………………Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…Chia sẻ về ý tưởng đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm từng khẳng định Tôi cố gắng … khác. Quả đúng như vậy, khám phá vẻ đẹp của Đất Nước trong không gian mênh mông, Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ngợi ca núi sông hùng vĩ mà thơ mộng với rừng xanh đồi cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt, biển lúa mênh mông, cánh cò dập dờn… như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và bao nhà thơ khác. Với một lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ sâu Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam, từ miền ngược tới miền xuôi, từ núi rừng tới biển cả, tự hào về bao danh lam thắng cảnh của Đất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và bao địa danh mang tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non NghiênCon có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmThực chất những danh thắng ấy là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lí từ hàng ngàn, hàng vạn năm chứ. Không khám phá dưới góc độ khoa học, với suy từ sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về những danh lam thắng cảnh ấy. Những núi vọng phu trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính là sự hóa thân của những người vợ, người chồng. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt đã tạo nên dáng núi kì lạ ấy. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh là biểu tượng đẹp đẽ cho tình yêu thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõi tiên bất chấp luật lệ thiên đình, nguyện hóa đá để muôn đời ở mãi bên nhau. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về tinh thần yêu nước nồng nàn, khí phách kiên cường bất khuất của những người dân đất Việt. Không có tinh thần đoàn kết một lòng tất không thể có Tổ quốc linh thiêng, hùng vĩ. Không có tinh thần vượt khó, hiếu học, không có núi bút non Nghiên. Và bất cứ danh lam thắng cảnh nào trên dải đất hình chữ S cũng là máu thịt của nhân dân. Vậy là mọi danh lam thắng cảnh đều là kết quả của sự hóa thân diệu kì, của bao thế hệ nhân dân lao động. Mỗi hình sông dáng núi, bóng đèo đều in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất của những con người Đất Việt. Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không có nhân dân bao đời với tâm hồn cao quý, khát vọng lãng mạn thì không có những thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời chiêm những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể, nổi tiếng của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến những khái quát tính chiết luậnVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng màng một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn nghìn năm ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta…Đâu chỉ có những địa danh như núi vọng phu, hòn Trống Mái, sự hóa thân diệu kì của nhân dân mà tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng, lối sống của ông cha ta. Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha thuở trước, Nguyễn Khoa Điềm không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọc nguyên vẹn cảm xúc ấy. Khúc thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và chất trữ tình, giữa thế núi kì thú và Nguyễn Khoa Điềm đã cắt những câu hỏi đó bằng suy từ lắng của mình, bằng những hình ảnh giàu chất thơ. Mạch thơ thể hiện rõ tư duy logic, đi từ cụ thể đến khái quát, một cách khái quát đầy cảm xúc, rưng rưng xúc động. Đoạn thơ cũng đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết. Chính chất liệu dân gian độc đáo, mới mẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã có một quá trình phát triển trong lịch sử dân tộc nói chung, văn học nói riêng. Những nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng nói lên vai trò của nhân dân như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… Đến giai đoạn văn học cách mạng, tư tưởng của nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và đóng góp to lớn của nhân dân trong vô vàn những cuộc đấu tranh ác liệt. Điều này được thể hiện qua một số cây bút tiêu biểu như Đất Nước Nguyễn Đình Thi, Đường tới thành phố Hữu Thỉnh,… Tuy nhiên, chỉ khi đến “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã trở thành hệ quy chiếu khiến nhà thơ có những khám phá mới mẻ, sâu sắc về Đất Nước qua không gian địa lí, thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa. Đặc biệt, Đất Nước của nhân dân đã vang lên thành lời thành tiếngĐể Đất Nước là Đất Nước của nhân Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần công của đoạn trích Đất Nước là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không khí, một giọng điệu, đưa ta vào thế giới gần gũi của ca dao dân ca, truyền thuyết văn hóa. Đó chính là nét đặc sắc thẩm mỹ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của da dao thần thoại”.Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và trữ tình, suy tư sâu lắng và cảm xúc nồng nàn. Chất liệu văn hóa dân gian được vận dụng sáng tạo. Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ngợi ca tâm hồn nhân dân, khẳng định nòi giống mà dáng đứng Việt Nam. Nhân dân là chủ Đất Nước, Đất Nước là của nhân tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã có một quá trình phát triển trong lịch sử dân tộc nói chung, văn học nói riêng. Những nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng nói lên vai trò của nhân dân như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… Đến giai đoạn văn học cách mạng, tư tưởng của nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và đóng góp to lớn của nhân dân trong vô vàn những cuộc đấu tranh ác liệt. Điều này được thể hiện qua một số cây bút tiêu biểu như Đất Nước Nguyễn Đình Thi, Đường tới thành phố Hữu Thỉnh,… Tuy nhiên, chỉ khi đến “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 7Ôi! Nếu thiên thần lên tiếng gọiBỏ nước Nga lên sống ở thiên đườngTôi sẽ đáp thiên đường xin để đấyCho tôi ở cùng Tổ quốc yêu thươngTình yêu tha thiết của Ênixin dành cho nước Nga cũng là tiếng lòng của biết bao nhiêu nghệ sĩ khắp dải đất Việt Nam. Cùng thể hiện tình yêu quê hương, đât nước sâu nặng nhưng mỗi nhà thơ lại có tiếng nói riêng độc đáo. Trường ca “Mặt đường khát vọng” với “Đất Nước” đã đưa chúng ta đến một Đất Nước giản dị mà rất đỗi đời thường – Đất Nước của nhân dân. Với một lối đi cho riêng mình, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện sâu sắc về địa lí, lịch sử, văn hóa của Đất NướcNhững người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng Phu………………………………………………………Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…Chia sẻ về ý tưởng đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm từng khẳng định Tôi cố gắng… khác. Quả đúng như vậy, kháp phá vẻ đẹp của Đất Nước trong không gian mênh mông, Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ngợi ca núi sông hùng vĩ mà thơ mộng với rừng xanh đồi cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt, biển lúa mênh mông, cánh cò dập dờn… như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và bao nhà thơ khác. Với một lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ sâu Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam, từ miền ngược tới miền xuôi, từ núi rừng tới biển cả, tự hào về bao danh lam thắng cảnh của Đất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và bao địa danh mang tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng năm in góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non NghiênCon có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmThực chất những danh thắng ấy là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lí từ hàng ngàn, hàng vạn năm chứ. Không khám phá dưới góc độ khoa học, với suy từ sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về những danh lam thắng cảnh ấy. Những núi vọng phu trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính là sự hóa thân của những người vợ, người chồng. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt đã tạo nên dáng núi kì lạ ấy. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh là biểu tượng đẹp đẽ cho tình yêu thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõi tiên bất chấp luật lệ thiên đình, nguyện hóa đá để muôn đời ở mãi bên nhau. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về tinh thần yêu nước nồng nàn, khí phách kiên cường bất khuất của những người dân đất Việt. Không có tinh thần đoàn kết một lòng tất không thể có Tổ quốc linh thiêng, hùng vĩ. Không có tinh thần vượt khó, hiếu học, không có núi bút non Nghiên. Và bất cứ danh lam thắng cảnh nào trên dải đất hình chữ S cũng là máu thịt của nhân dân. Vậy là mọi danh lam thắng cảnh đều là kết quả của sự hóa thân diệu kì, của bao thế hệ nhân dân lao động. Mỗi hình sông dáng núi, bóng đèo đều in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất của những con người Đất Việt Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không có nhân dân bao đời với tâm hồn cao quí, khát vọng lãng mạn thì không có những thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời chiêm những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể, nổi tiếng của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến những khái quát tính chiết luậnVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng màng một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn nghìn năn ta cũng thấyNhũng cuộc đời đã hóa núi sông ta…Đâu chỉ có những địa dnah như núi vọng phu, hòn Trống Mái, sự hóa thân diệu kì của nhân dân mà tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng, lối sống của ông cha ta. Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha thuở trước, Nguyễn Khoa Điềm không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọc nguyên vẹn cảm xúc ấy. Khúc thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và chất trữ tình, giữa thế núi kì thú và Nguyễn Khoa Điềm đã cắt những câu hỏi đó bằng suy từ lắng của mình, bằng những hình ảnh giàu chất thơ. Mạch thơ thể hiện rõ tư duy logic, đi từ cụ thể đến khái quát, một cách khái quát đầy cảm xúc, rưng rưng xúc động. Đoạn thơ cũng đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết. Chính chất liệu dân gian độc đáo, mới mẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã có một quá trình phát triển trong lịch sử dân tộc nói chung, văn học nói riêng. Những nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng nói lên vai trò của nhân dân như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… Đến giai đoạn văn học cách mạng, tư tưởng của nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và đóng góp to lớn của nhân dân trong vô vàn những cuộc đấu tranh ác liệt. Điều này được thể hiện qua một số cây bút tiêu biểu như Đất Nước Nguyễn Đình Thi, Đường tới thành phố Hữu Thỉnh,… Tuy nhiên, chỉ khi đến “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã trở thành hệ quy chiếu khiến nhà thơ có những khám phá mới mẻ, sâu sắc về Đất Nước qua không gian địa lí, thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa. Đặc biệt, Đất Nước của nhân dân đã vang lên thành lời thành tiếngĐể Đất Nước là Đất Nước của nhân Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoạiThành công của đoạn trích Đất Nước là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không khí, một giọng điệu, đưa ta vào thế giới gần gũi của ca dao dân ca, truyền thuyết văn hóa. Đó chính là nét đặc sắc thẩm mĩ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của da dao thần thoại”Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và trữ tình, suy tư sâu lắng và cảm xúc nồng nàn. Chất liệu văn hóa dân gian được vận dụng sáng tạo. Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ngợi ca tâm hồn nhân dân, khẳng định nòi giống mà dáng đừng Việt Nam. Nhân dân là chủ Đất Nước, Đất Nước là của nhân tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài mẫu 8Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiNgười học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non NghiênGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmCon cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sống ta…”Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” là tư tưởng bao trùm của chương “Đất Nước” cũng như của cả trường ca ca ngợi vai trò và sự hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Đoạn thơ từ câu “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu… Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” là một trong những đoạn thơ tiêu biểu thể hiện tư tưởng này. Đoạn thơ gọi tên các danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước, trải dài từ Bắc vào Nam. Từ Bình Định, Lạng Sơn, Thanh Hoá với núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đến con cóc, con gà ở Hạ Long, chín mươi chín con voi về dựng đất Tổ Hùng Vương đến Đà Nẵng với núi Bút, non Nghiên, miền Nam với những cánh đồng Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà thắng cảnh thiên nhiên hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Những thắng cảnh này là sự hoá thân xả thân từ những gì có tình yêu giữa vợ và chồng nàng Tô Thị bồng con ngóng chồng ngày đêm mỏi mòn hoá đá. Từ sự son sắt thuỷ chung tha thiết của tình yêu lứa đôi. Trong cái riêng nhất của đời sống vẫn canh cánh trong lòng tình yêu đất nước. Từ những hiện tượng, thiên nhiên, địa lý lặng lẽ âm thầm như dòng sông, ao đầm đến những mảnh đất thiêng liêng như đất Tổ Hùng Vương đều có tiếng nói riêng kêu gọi hướng về cội nguồn nòi động nhất là những con người, con vật quê hương đều có chung ý nghĩ làm giàu đẹp sang trọng cho đất đoạn thơ như sự huy động lực lượng tối đa để kiến tạo nên một đất nước riêng của mình. Nguyễn Khoa Điềm hiểu đến tận cùng những ký thác mà lịch sử cha ông để địa danh trên không chỉ là tên gọi của những cảnh trí thiên nhiên thuần tuý mà được cảm nhận thông qua cảnh ngộ số phận của người dân. Dáng hình Đất Nước được tạc nên từ bao mất mát, đau thương vui buồn hạnh phúc… của nhân dân. Chính họ đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc những hình ảnh, cảnh vật, hiện tượng cụ thể nhà thơ đúc kết thành một khái quát sâu sắc“Và đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình… núi sông ta”Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử 4000 năm của đất nước không nói tới các triều đại hay những người anh hùng được lưu danh mà ca ngợi người dân- những con người vô danh giản dị mà phi thường“Họ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênChính họ đã làm ra Đất Nước”Mạch cảm xúc dồn tụ dần và kết thúc bật lên tư tưởng chủ đạo của cả chương thơ và bản trường ca“Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dânĐất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”Tư tưởng chủ đạo của chương được thể hiện bằng hình thức trữ tình chính luận. Nguyễn Khoa Điềm đưa ra để thuyết phục người đọc thật giản dị chính người dân – những con người vô danh đã kiến tạo và bảo vệ Đất Nước, xây dựng truyền thống văn hóa lịch sử ngàn đời. Lý lẽ ấy không phát biểu một cách khô khan mà bằng hình ảnh gợi cảm, giọng thơ sôi nổi tha những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và nghĩ suy, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với người dân, đất nước của thế hệ trẻ thời kỳ chống thơ trên đã thể hiện rõ quan niệm “Đất Nước của nhân dân”- tư tưởng chủ đạo, tạo nên cảm hứng bao trùm, mở ra những khám phá sâu và mới của nhà thơ về Đất Nước ngay cả ở những chỗ đã rất quen niệm ấy thực ra đã có ngọn nguồn từ trong dòng tư tưởng và văn chương truyền thống của dân tộc ta. Nhưng đến thời hiện đại, tư tưởng ấy lại càng trở nên sâu sắc và được thể hiện phong phú trong thơ khảo thêm Mở bài Đất nước của Nguyễn Khoa ĐiềmMở bài phân tích bài thơ Đất nước mẫu 1Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác bài phân tích bài thơ Đất nước mẫu 2Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ thời chống Mĩ. Ông là nhà thơ trưởng thành từ ghế nhà trường xã hội chủ nghĩa, không chỉ tiếp thu trình độ văn hóa mới, lí tưởng mới, ông còn là thế hệ thanh niên trẻ tích cực tham gia trực tiếp vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Chính vì vậy, những áng thơ của ông luôn cháy bỏng tình yêu quê hương, đất nước. Đất Nước là một bài thơ như vậy. Nó là đứa con tinh thần, là khát vọng chất chứa của ông, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ hướng về cuộc kháng chiến chung của dân mở bài phân tích khổ thơ đầu đoạn trích Đất nướcDân gian ta có câu “Uống nước nhớ nguồn.” Dù ở đâu, làm gì thì mỗi chúng ta cũng phải nhớ về quê hương, về cội nguồn dân tộc. Nhưng liệu mấy ai hiểu thế nào là cội nguồn đất nước, cội nguồn dân tộc? Thắc mắc này đã được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lí giải vô cùng cặn kẽ và bình dị ở khổ thơ đầu tiên của Đất nước trích Trường ca Mặt đường khát vọng.-Lịch thi THPT Quốc Gia 2023Xem chi tiết lịch thi Lịch thi THPT Quốc Gia 2023Gửi đề thi để nhận lời giải ngay com/ đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 12 Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ''Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta'' trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Bài viết tổng hợp dàn ý và bài phân tích tư tưởng của nhân dân qua bài thơ Đất nước. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 nhé. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 12 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 và biết cách soạn bài lớp 12 và các Tác giả - Tác phẩm Ngữ Văn 12 trong sách Văn tập 1 và tập 2, mời các bạn tham bài liên quan đến tác phẩmSoạn văn bài Đất nước Nguyễn Khoa ĐiềmSoạn bài lớp 12 Đất nước - Nguyễn Khoa ĐiềmPhân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Bài văn mẫu lớp 12Những bài văn mẫu hay lớp 12Văn mẫu lớp 12 Bình giảng đoạn thơ sau "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước... Những cuộc đời đã hoá núi sông ta" được VnDoc sưu tầm và giới thiệu cho các em học sinh cùng quý thầy cô tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham giảng đoạn thơ sau "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước... Những cuộc đời đã hoá núi sông ta"Hình ảnh đất nước đã khơi nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao thi sĩ cách mạng để sáng tạo nên những vần thơ đẹp tuyệt vời. Chế Lan Viên nhìn suốt chiều dài lịch sử oanh liệt để khẳng định "Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?". Lê Anh Xuân đã tạc vào thơ một dáng đứng Việt Nam với hình ảnh "Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân". Tố Hữu với hình ảnh đất nước sáng ngời "Ôi! Việt Nam từ trong biển máu. Người vươn lên như một thiên thần". Với chương Đất Nước trong Mặt đường khát vọng 1974, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên những cảm nhận sâu sắc về đất nước, về nhân dân, về dân tộc và trách nhiệm lớn lao của tuổi trẻ Việt Nam trước non sông đất nước qua những vần thơNhững người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non NghiênCon cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi đất nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông taĐất Nước của Nhân dânNhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 ở Thừa Thiên Huế là con nhà phê bình văn học Hải Triều, một nhà phê bình xuất sắc đã từng chủ trì lý thuyết "nghệ thuật vị nhân sinh" trong cuộc tranh luận với Hoài Thanh 1936-1939. Đất Nước được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ sinh viên các đô thị tạm chiếm ở miền Nam trước 1975 trước vận mệnh hiểm nghèo của đất nước; kêu gọi họ hướng về nhân dân mà xuống đường đấu tranh hòa nhập với cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Trong các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tưởng, xúc cảm dồn nén, thể hiện một chiều sâu văn hoá, đặc trưng của thế hệ các nhà thơ thời kỳ chống Mỹ cứu nước đã có một hành trang văn hoá chuẩn bị khá chu đáo trước khi bước vào chiến Đất Nước khai triển có vẻ phóng túng tự do như một thứ tùy bút thơ, nhưng thực ra tứ thơ vẫn tập trung thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân qua các bình diện chủ yếu, đó là đất nước trong chiều dài thời gian lịch sử, đất nước trong chiều rộng không gian lãnh thổ địa lý, đất nước trong bề sâu truyền thống văn hoá, phong tục, lối sống tâm hồn cốt cách dân tưởng “Đất Nước của Nhân dân” là một tư tưởng rất tiến bộ của thơ ca thời đại cách mạng. Đoạn trích bình giảng trên đây đã thể hiện một cách sâu sắc và cụ thể sự "hoá thân" của nhân dân vào đất nước muôn nói lên công lao to lớn của nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhà thơ đã nhắc đến những danh lam thắng cảnh, những tên đất tên làng trên mọi miền đất nước từ Bắc chí Nam. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn thấy hình sông, thế núi là sự kết tinh đời sống tâm hồn của nhân dân. Xuất phát từ quan niệm của nhà Phật hóa thân, tác giả đã trình bày những cảm xúc suy tưởng của mình chính nhân dân đã hóa thân thành đất nước "hóa thân cho dáng hình xứ sở", làm nên đất nước vĩnh hằng. Những danh lam thắng cảnh không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa mà đã được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hoá thân của những con người không tên, không nghệ thuật sâu sắc, từ ngữ giàu hình ảnh gợi cảm, tác giả đã viết lên những hình tượng sinh động, giàu sức khái quát. Từ hình sông, thế núi, từ truyền thống, tác giả đã tạo nên những liên tưởng độc đáo thú vị, giúp người đọc cảm nhận công lao to lớn của nhân dân tròng quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngTư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, khiến cho những địa danh ngàn đời của Tổ quốc, qua cái nhìn sắc sảo đầy khám phá của nhà thơ chính là sự hoá thân của những con người bình dị vô danh "Những con người không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ đã làm ra Đất Nước"."Những người vợ.... hòn Trống Mái" Những địa danh, những hình sông thế núi mang hồn người, linh hồn dân tộc. Chúng là sự tượng hình, kết tinh đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân mang đậm chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo Việt Nam. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái là kết tinh của tình yêu chung thuỷ của biết bao người vợ chờ chồng trong chiến tranh liên miên, của sự gắn kết muôn đời, bất chấp mọi sự bão tố của thời gianKhông hóa thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờĐợi một dáng hình trở lại giữa đơn côi Tác giả không chỉ chiêm ngưỡng những hình ảnh núi Bút, non Nghiên mà còn nhìn ra trong đó phẩm chất, truyền thống hiếu học của dân tộc ta từ bao đời nay. Những núi Bút non Nghiên phô bày vẻ đẹp mỹ lệ giữa đất trời nước Việt hay là hình tượng những người học trò nghèo đã gửi gắm quyết tâm, ước vọng của mình vào đây?Người học trò nghèo... non NghiênNhà thơ đã tìm về cội nguồn để cảm nhận sâu sắc dáng hình đất nước. Những hình ảnh thân thuộc của non sông đất nước gợi lên quá khứ hào hùng với truyền thống đánh giặc ngoại xâm oanh liệt của nhân dân ta với truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân, với sự nghiệp dựng nước đầy gian lao của Vua HùngGót ngựa Thánh Gióng... đất tổ Hùng VươngCho đến "những con rồng nằm im" cũng góp phần làm nên "dòng sông xanh thẳm"; con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh". Và cả những địa danh thật nôm na bình dị "Những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm". Nguyễn Khoa Điềm đã đặt cái nhìn trân trọng của mình vào nhân dân không tên không tuổi "những người dân nào" không ai biết cũng làm nên tên núi, tên sông, và tất cả những cái bình thường trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân cũng hoá thân thành dáng hình xứ khái quát của hình tượng thơ cứ được nâng dần lên. Đó là một hình dáng của tư thế, truyền thống Việt Nam, truyền thống văn hiến của dân tộc có 4000 năm lịch sử. Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi, chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông tượng thơ càng được nâng dần lên và chốt vào một câu đầy trí tuệÔi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông taĐoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên và được viết theo thể tự do, câu thơ mở rộng kéo dài nhưng không nặng nề mà biến hoá linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu sức biểu hiện và sức khái quát cao. Đó là hình ảnh Đất Nước của Nhân dân - Nhân dân đã hoá thành đất nước. Bởi trên khắp ruộng đồng, gò, bãi, núi, sông đâu đâu cũng là hình ảnh của văn hoá, của lịch sử, của đời sống tâm hồn, cốt cách của Việt đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 12 Bình giảng đoạn thơ sau "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước... Những cuộc đời đã hoá núi sông ta". Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 12 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn tiếp theo Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến Quang Dũng Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa... Trôi dòng nước lũ hoá đong đưa
Phân tích đoạn thơ “Những người vợ nhớ chồng… hóa núi sông ta” Nguyễn Khoa Điềm Mở bài Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” trước hết được thể hiện qua sự biết ơn sâu nặng của nhà thơ đối với nhân dân đã “góp” cuộc đời mình, tuổi tên của mình, số phận mình để hóa thân thành những địa danh, thắng cảnh. Những địa danh, thắng cảnh ấy gắn với cuộc sống, số phận, tính cách của nhân dân “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình cho đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…” Thân bài Trước hết, ta có thể thấy, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật liệt kê liệt kê những địa danh, sử dụng động từ “góp” để diễn tả hình ảnh của nhân dân hóa thân thành những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp cho Đất Nước. Các danh thắng ấy được nhà thơ liệt kê từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng mang bóng dáng nhân dân. Ở miền Bắc, danh thắng ấy hiện lên với núi Vọng Phu, hòn Trống Mái biểu tượng cho vẻ đẹp của tình yêu thủy chung bền vững. Hòn Vọng Phu nay vẫn còn ở Lạng Sơn gắn liền với tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng hóa đá. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, Thanh Hóa, tương truyền do hai vợ chồng yêu nhau hóa thân thành. Thời gian trôi qua, những vẻ đẹp thủy chung, nghĩa tình đã bất tử. Đó còn là vẻ đẹp người anh hùng làng Gióng với chứng tích “ao đầm ” hình móng chân ngựa mọc đầy quanh chân núi Sóc Sơn Hà Nội. Đó là quần thể núi non hùng vĩ “chín mươi chín con voi” bao quanh núi Hi Cương Phú Thọ nơi đền thờ vua Hùng ngự trị. Đó là “con cóc con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Tất cả nhằm nhắc nhở chúng ta nhớ về truyền thống đánh giặc giữ nước, công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước của cha ông. Cảm nhận hình ảnh đất nước trong đoạn trích “Đất nước” trích Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm Phân tích tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” trong đoạn trích Đất nước trích “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm Ở miền Trung, nhà thơ đưa ta về với vùng đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “núi Bút, non Nghiên” do cậu học trò nghèo dựng nên. Đó là biểu tượng của truyền thống hiếu học của nhân dân đã góp cho đất nước bao tên tuổi. Ở miền Nam, danh thắng là con sông Cửu Long hiền hòa, tươi đẹp “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Là những người dân hiền lành, chăm chỉ góp nên “tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”. Đó là “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Bốn câu thơ cuối nâng ý thơ lên tầm khái quát sự hóa thân của Nhân Dân vào bóng hình Đất Nước. Nhân Dân chính là người đã tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, khắp mọi miền đất nước này “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi! Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” Hai câu đầu là khẳng định dáng hình của Nhân Dân trong không gian Đất Nước “trên khắp ruộng đồng gò bãi”. Bóng hình ấy của nhân dân không chỉ làm cho đất nước thêm phần tươi đẹp mà còn mang “một ao ước, một lối sống cha ông”. Nghĩa là nhân dân không chỉ góp danh lam thắng cảnh, mà còn góp vào đó những giá trị tinh thần, là phong tục, tập quán, là truyền thống văn hóa lưu dấu tới mai sau. Hai câu cuối, hình tượng thơ được nâng dần lên và chốt lại bằng một câu đầy trí tuệ “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. “Núi sông ta” sỡ dĩ có được là nhờ “những cuộc đời” đã hóa thân để góp nên. Nhân Dân không chỉ góp tuổi, góp tên mà còn góp cả cuộc đời và số phận mình. Ý thơ giản dị mà sâu sắc khiến ta hình dung Đất Nước thật gần gũi và thân thuộc. Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên được viết theo thể thơ tự do. Câu thơ mở rộng kéo dài, biến hóa linh hoạt tạo cho đoạn thờ giàu sức gợi cảm và khái quát cao. Thủ pháp liệt kê địa danh, nhà thơ luôn viết hoa hai chữ Đất Nước thể hiện sự thành kính thiêng liêng. Động từ “góp” được nhắc lại nhiều lần. Tất cả làm nên đoạn thơ hay về đất nước. Kết bài Pau-top-xki đã từng nói “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp”. Và phải chăng Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy được niềm vui ấy khi mở đường đến với cái đẹp của tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”.